Chủ nhật, 29/09/2024
   

Góp ý dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư 52/2018/TT-NHNN

Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam đã có công văn gửi Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng - Ngân hàng Nhà nước góp ý kiến đối với dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 52/2018/TT-NHNN, để phù hợp với thực tiễn hoạt động của các TCTD và đề nghị Ban soạn thảo xem xét sửa đổi một số

Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam đã có công văn gửi Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng - Ngân hàng Nhà nước góp ý kiến đối với dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 52/2018/TT-NHNN ngày 31/12/2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định xếp hạng tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài (dự thảo Thông tư).

Sau khi nghiên cứu và trên cơ sở ý kiến của một số Tổ chức hội viên, Hiệp hội Ngân hàng có một số ý kiến tham gia như sau:

I. Ý kiến chung

- Về phương pháp xếp hạng: Thời gian qua, kết quả đánh giá của các tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc tế (như Moody’s, Fitch Ratings, Standard&Poor’s) đối với các NHTM Việt Nam rất sát với thực tế. Vì vậy, đề nghị NHNN xem xét xây dựng quy định xếp hạng các NHTM Việt Nam như đánh giá của các tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc tế theo hướng xem xét chia nhỏ xếp hạng trong các xếp hạng lớn A, B, C, D, E thành các mức nhỏ hơn như A1, A2, B1, B2,… để đảm bảo ghi nhận việc phân loại được chính xác và đầy đủ nhất. Việc chia các mức xếp hạng chỉ gồm A, B, C, D, E như hiện tại đang quá rộng. Dải điểm trong một hạng cũng khá lớn khiến nỗ lực của các ngân hàng trong việc cải thiện điểm số chưa được ghi nhận đúng khi các ngân hàng đạt điểm 4.49 sẽ đạt được xếp hạng tương tự ngân hàng đạt điểm 3.5.

- Về phân nhóm các NHTM để xếp hạng:Theo quy định tại Thông tư 52/2018/TT-NHNN, các NHTM được phân thành 02 nhóm để xếp hạng: nhóm NHTM có quy mô tổng tài sản trên 100 nghìn tỷ VND và nhóm NHTM có quy mô tổng tài sản từ 100 nghìn tỷ VND trở xuống. Tuy nhiên, trong hệ thống TCTD hiện nay, quy mô tổng tài sản của các NHTM không đồng đều và có sự chênh lệch rất lớn về cấp độ, các NHTM chênh lệch lớn về quy mô tổng tài sản từ 200-300 nghìn tỷ VND, cách thức hoạt động, quản trị điều hành và hiệu quả kinh doanh rất khác nhau; đặc biệt là đối với các NHTM có quy mô tổng tài sản từ 01 triệu tỷ VND trở lên (là những NHTM có tầm quan trọng lớn, đóng vai trò trụ cột trong hệ thống ngân hàng và nền kinh tế). Do đó, các quy định về tiêu chí, điểm số và trọng số tại Thông tư 52 là chưa phù hợp để đánh giá, xếp hạng đối với các NHTM lớn. Để tăng cường hiệu quả trong đánh giá, xếp hạng TCTD và làm cơ sở để xây dựng bộ tiêu chí/chỉ tiêu đánh giá tương ứng phù hợp, đề nghị Ban soạn thảo xem xét phân nhóm các NHTM theo các cấp độ chi tiết hơn, trong đó các NHTM có quy mô tổng tài sản từ 01 triệu tỷ VND trở lên cần có phương thức đánh giá phù hợp.

II. Về nội dung quy định tại dự thảo Thông tư:

1.Về giải thích từ ngữ:

- Khoản 1 Điều 1 dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung Khoản 1 Điều 3 Thông tư 52/2018/TT-NHNN quy định: “Tỷ lệ an toàn vốn là chỉ tiêu được xác định theo quy định của Ngân hàng Nhà nước về các giới hạn, tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài”.

- Khoản 5 Điều 1 dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung gạch đầu dòng thứ hai tại Khoản 15 Điều 3 Thông tư 52/2018/TT-NHNN quy định: - Nợ phải trả nhạy cảm lãi suất là Tổng nợ phải trả nội bảng cân đối kế toán nhạy cảm với lãi suất (không bao gồm nợ phải trả không chịu lãi) phản ánh trên Thuyết minh Báo cáo tài chính theo quy định của pháp luật về chế độ báo cáo tài chính đối với các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài”.

Trong quy định trên có sử dụng thuật ngữ “nợ phải trả không chịu lãi”, ngoài ra tại gạch đầu dòng thứ nhất tại Khoản 15 Điều 3 Thông tư 52/2018/TT-NHNN sử dụng thuật ngữ “tài sản không chịu lãi”, tuy nhiên chưa có định nghĩa cụ thể về các thuật ngữ này (Ví dụ: tiền gửi bằng đồng ngoại tệ của tổ chức (trừ TCTD, Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài) và cá nhân tại TCTD, Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài đang có lãi suất bằng 0%/năm theo quy định của Ngân hàng Nhà nước thì có được hiểu là nợ phải trả không chịu lãi hay không? Tiền gửi của Ngân hàng Nhà nước có lãi suất bằng 0%/năm có phải là tài sản không chịu lãi hay không?). Do đó, đề nghị Ban soạn thảo hướng dẫn rõ để các tổ chức tín dụng (TCTD) có cơ sở áp dụng.

2. Về tài liệu, thông tin, dữ liệu sử dụng để xếp hạng:

Khoản 7 Điều 1 dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung Khoản 1 Điều 5 Thông tư 52/2018/TT-NHNN quy định: “1. Tài liệu, thông tin, dữ liệu sử dụng để xếp hạng: … b) Thông tin, dữ liệu tại báo cáo tài chính được kiểm toán của tổ chức tín dụng, chi nhánh nước ngoài theo quy định của pháp luật…”.

Dự thảo chưa có hướng dẫn thông tin, dữ liệu tại báo cáo tài chính có bắt buộc phải được kiểm toán bởi công ty kiểm toán độc lập hay chỉ cần được kiểm toán? Do vậy, đề nghị Ban soạn thảo quy định cụ thể hơn nội dung này để các TCTD có cơ sở thực hiện.

Ngoài ra, đề nghị Ban soạn thảo bổ sung quy định: “trừ trường hợp số liệu lấy theo Báo cáo tài chính quý để tính chỉ tiêu bình quân”, do một số chỉ tiêu như Vốn chủ sở hữu bình quân, Tổng tài sản bình quân, tài sản sinh lời bình quân,… được tính bằng bình quân số liệu 4 quý, trong khi Báo cáo tài chính quý không được kiểm toán.

3. Về xếp hạng:

Khoản 14 Điều 1 dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung điểm b Khoản 7 Điều 20 Thông tư 52/2018/TT-NHNN quy định: “7. Ngoài quy định nêu tại Khoản 5 Điều 20 Thông tư này, tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài xếp hạng E nếu chưa được NHNN đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt và lâm vào một trong các trường hợp sau đây: b) Số lỗ lũy kế của tổ chức tín dụng lớn hơn 50% giá trị của vốn điều lệ và các quỹ dự trữ”.

Đề nghị Ban soạn thảo bổ sung thêm nội dung về nguồn lấy số liệu là Báo cáo tài chính được kiểm toán gần nhất như trong Luật các TCTD, theo đó sửa đổi quy định này như sau: “Số lỗ lũy kế của tổ chức tín dụng lớn hơn 50% giá trị của vốn điều lệ và các quỹ dự trữ ghi trong báo cáo tài chính đã được kiểm toán gần nhất.”

4. Về cách tính điểm nhóm chỉ tiêu định tính:

Theo quy định của Thông tư 52/2018/TT-NHNN và dự thảo Thông tư, việc tính và trừ điểm dựa trên số lần vi phạm bị xử phạt nhưng không xét trên cùng một mặt bằng về quy mô, mạng lưới, số lượng lao động… giữa các nhóm TCTD, gây nhiều khó khăn cho TCTD. Do vậy, khi tính điểm nhóm chỉ tiêu định tính cần xét đến các yếu tố đặc thù của các TCTD để việc đánh giá mức độ tuân thủ quy định pháp luật phản ánh khách quan và phù hợp thực tế hơn, tạo điều kiện cho các TCTD được ghi nhận toàn diện kết quả hoạt động trong năm xếp hạng. Trên cơ sở đó, đề nghị Ban soạn thảo xem xét chỉnh sửa quy định về cách tính điểm nhóm chỉ tiêu định tính cụ thể như sau:

- Khoản 11 Điều 1 dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung Khoản 2 Điều 16 Thông tư 52/2018/TT-NHNN quy định: 2. Điểm 5 nếu TCTD, CNNHNNg không có hành vi vi phạm quy định pháp luật về tiền tệ và ngân hàng được phát hiện trong năm xếp hạng và các vi phạm phát hiện trước năm xếp hạng đã khắc phục xong tại từng chỉ tiêu trong nhóm chỉ tiêu định tính”.

Quy định trên chưa thể hiện rõ đã khắc phục xong tính tới thời điểm nào, có thể hiểu đã khắc phục xong tính tới thời điểm thực hiện xếp hạng hay 31/12 năm xếp hạng. Do đó, đề nghị Ban soạn thảo sửa đổi như sau: “Điểm 5 nếu TCTD, CNNHNNg không có hành vi vi phạm quy định pháp luật về tiền tệ và ngân hàng được phát hiện trong năm xếp hạng và các vi phạm phát hiện trước năm xếp hạng đã khắc phục xong tính tới thời điểm 31/12 năm xếp hạng (đối với trường hợp xếp hạng trên cơ sở số liệu tại thời điểm ngày 31/12 năm xếp hạng) hoặc ngày cuối cùng của quý liền kề thời điểm thực hiện xếp hạng (đối với trường hợp xếp hạng đột xuất) tại từng chỉ tiêu trong nhóm chỉ tiêu định tính”.

Ngoài ra, đề nghị Ban soạn thảo bổ sung nội dung “Trường hợp có hành vi vi phạm thì không vượt quá 10% số chi nhánh (bao gồm cả Trụ sở chính) trên tổng số chi nhánh của TCTD bị vi phạm theo quy định trong năm xếp hạng” để phù hợp với Tiêu chí 4 về Tình hình chấp hành quy định của pháp luật quy định tại điểm d Khoản 3 Điều 1 Thông tư số 114/2020/TT-BTC ngày 30/12/2020 của Bộ Tài chính sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2018/TT-BTC ngày 31/01/2018 hướng dẫn một số nội dung về giám sát tài chính, đánh giá hiệu quả đầu tư vốn nhà nước tại TCTD do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ và TCTD do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ, đồng thời phản ánh đầy đủ, khách quan mức độ tuân thủ quy định pháp luật của TCTD đã nêu trên.

- Khoản 11 Điều 1 dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung tiết ii Điểm a Khoản 3 Điều 16 Thông tư 52/2018/TT-NHNNquy định vi phạm được sử dụng để tính điểm nhóm chỉ tiêu định tính bao gồm “Vi phạm do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tự phát hiện và báo cáo”.

Đề nghị Ban soạn thảo làm rõ cơ chế báo cáo với những vi phạm do TCTD tự phát hiện và khắc phục, bao gồm ngay khi phát hiện hay báo cáo tại thời điểm cung cấp thông tin xếp hạng, hình thức báo cáo theo quy định/hướng dẫn nào, báo cáo tới cơ quan nào tại NHNN…

- Khoản 11 Điều 1 dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung tiết ii, điểm b, Khoản 3 Điều 16 Thông tư 52/2018/TT-NHNNquy định “Đối với các hành vi vi phạm khác, tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài sẽ nhận mức điểm 4”.

Đề nghị Ban soạn thảo đưa ra cơ sở xác định “vi phạm khác” (ví dụ như có văn bản kết luận vi phạm của NHNN hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền,…). Trường hợp định kỳ các TCTD nhận được các công văn nhắc nhở chung của Cơ quan Thanh tra, giám sát về tình hình hoạt động và một số vấn đề trong truyền dữ liệu báo cáo định kỳ hoặc việc một TCTD nộp bổ sung thuế TNDN… có tính là “vi phạm khác” hay không?

- Khoản 11 Điều 1 dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung tiết iii, điểm b, Khoản 3 Điều 16 Thông tư 52/2018/TT-NHNN:Đề nghị chỉnh sửa thành “Trường hợp vi phạm nhiều quy định khác nhau (tại cùng một nhóm chỉ tiêu định tính) tương ứng với các mức điểm khác nhau, TCTD, CNNHNNg sẽ nhận mức điểm trung bình trong số các mức điểm tương ứng với các vi phạm”; do việc áp mức điểm thấp nhất sẽ loại bỏ những mức điểm tốt hơn của các chỉ tiêu khác trong cùng nhóm chỉ tiêu mà TCTD đạt được.

- Khoản 11 Điều 1 dự thảo Thông tư sửa đổi, bố sung tiết iv điểm b Khoản 3 Điều 16 Thông tư 52/2018/TT-NHNN: Đề nghị xem xét điều chỉnh mức giới hạn điểm trừ tối đa là 0,45 điểm (mức hiện tại là 0,9 điểm) và xem xét không trừ điểm đối với các vi phạm phát sinh trước thời điểm văn bản pháp luật quy định về vi phạm đó có hiệu lực và do các nguyên nhân khách quan mà TCTD chưa thể khắc phục được vi phạm này; trên cơ sở đó khuyến khích các TCTD tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ nhằm tự phát hiện các hành vi vi phạm và có biện pháp xử lý kịp thời, phù hợp với định hướng của Ngân hàng Nhà nước.

- Khoản 11 Điều 1 dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung tại gạch đầu dòng thứ nhất tiết iv điểm b Khoản 3 Điều 16 quy định: “Tại cùng một nhóm chỉ tiêu định tính, trường hợp tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài vi phạm nhiều lần đối với cùng một quy định khác nhau sẽ bị trừ 0.1 điểm đối với mỗi lần vi phạm (áp dụng từ lần vi phạm thứ hai trở lên)”.

Để TCTD có cơ sở xác định và tự chấm điểm, trừ điểm đối với nhóm chỉ tiêu định tính, đề nghị Ban soạn thảo làm rõ đối với nội dung này do NHNN phát hiện hay do TCTD tự phát hiện.

- Khoản 11 Điều 1 dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung tiết v điểm b Khoản 3 Điều 16 quy định: “Riêng vi phạm do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tự phát hiện và báo cáo nhưng đã khắc phục xong trong năm xếp hạng theo đánh giá của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng thì không bị tính điểm”.

Theo Công văn số 7237/NHNN-TTGSNH, TCTD thực hiện 03 báo cáo gồm Biểu 1: Báo cáo kết quả thực hiện kết luận thanh tra; Biểu 2: Báo cáo xử lý vi phạm hành chính; Biểu 3: Báo cáo kết quả thực hiện kiểm toán (bao gồm kiểm toán nhà nước, kiểm toán nội bộ và kiểm toán độc lập. Với mục báo cáo từ Kiểm toán nội bộ, Kiểm toán độc lập thì hiện tai sau khi gửi cho Cơ quan Thanh tra giám sát ngân hàng các TCTD chưa nhận được cơ chế phản hồi từ Cơ quan Thanh tra giám sát Ngân hàng. Trên thực tế, các kiến nghị của Kiểm toán nội bộ, Kiểm toán độc lập đã hoàn thành việc thực hiện khắc phục vào thời điểm báo cáo được gửi tới Cơ quan Thanh tra giám sát Ngân hàng. Vậy, với việc TCTD đã tự phát hiện, báo cáo đồng thời đã khắc phục nhưng chưa nhận được đánh giá của Cơ quan Thanh tra giám sát Ngân hàng thì có bị tính trừ điểm khi xếp hạng không? Đề nghị Ban soạn thảo làm rõ để các TCTD có căn cứ theo dõi và tự đánh giá các lỗi đã vi phạm, từ đó tăng cường kiểm soát, có kế hoạch hành động kịp thời, điều chỉnh, cải thiện nâng cao điểm định tính tại TCTD trong các quí tiếp theo.

III. Góp ý đối với Thông tư 52/2018/TT-NHNN

Để phù hợp với thực tiễn hoạt động của các TCTD, đề nghị Ban soạn thảo xem xét sửa đổi một số nội dung khác của Thông tư 52/2018/TT-NHNN nhưng chưa được đề cập tại dự thảo Thông tư như sau:

1. Về các tiêu chí xếp hạng:

1.1. Tiêu chí về Vốn:

Tiêu chí về Vốn được đánh giá chủ yếu dựa trên chỉ tiêu tỷ lệ an toàn vốn (CAR) và tỷ lệ an toàn vốn cấp 1; tuy nhiên, quy định về tính điểm, ngưỡng tính điểm và tỷ trọng của các chỉ tiêu này chưa phù hợp, do:

- Mức quy định hiện tại quá cao, các TCTD khó có khả năng đáp ứng. Cụ thể: Để đạt được 5 điểm tối đa thì tỷ lệ CAR phải lớn hơn hoặc bằng 15% và tỷ lệ an toàn vốn cấp 1 phải lớn hơn hoặc bằng 12%; đây là mức rất khó để có thể đạt được xét trên tỷ lệ CAR bình quân chung của toàn hệ thống (Theo thống kê trên Website của NHNN đến ngày 28/02/2021, tỷ lệ CAR bình quân của nhóm NH áp dụng Thông tư 41/2016/TT-NHNN là 11,16%, trong đó nhóm NHTM Nhà nước 9,08%, nhóm NHTM cổ phần 10,99%; Tỷ lệ CAR bình quân của nhóm NH áp dụng Thông tư 22/2019/TT-NHNN là 10,86%, trong đó nhóm NHTM Nhà nước 11,1%, nhóm NHTM cổ phần 9,48%).

- Theo quy định của NHNN, các NHTM áp dụng Thông tư 41/2016/TT-NHNN phải duy trì tỷ lệ CAR tối thiểu 8%, các NHTM áp dụng Thông tư 22/2019/TT-NHNN phải duy trì tỷ lệ CAR tối thiểu 9%. Việc quy định ngưỡng điểm thấp trong khi các NHTM vẫn đảm bảo tuân thủ tỷ lệ CAR theo quy định là chưa phù hợp. 

Do đó, đề nghị Ban soạn thảo xem xét chỉnh sửa quy định về điểm đối với tiêu chí Vốn theo hướng tính điểm tối đa đối với các NHTM tuân thủ tỷ lệ CAR theo quy định của NHNN; xem xét có cơ chế cộng điểm nếu tỷ lệ CAR cao hơn một mức nhất định để khuyến khích các NHTM thực hiện các giải pháp nâng cao mức độ an toàn vốn; đồng thời xem xét đánh giá, xếp hạng mức độ an toàn vốn của các NHTM theo các cấp độ gắn với quy mô tổng tài sản như đã nêu trên.

1.2. Tiêu chí về Chất lượng tài sản:

Tiêu chí này đánh giá dựa trên chỉ tiêu tỷ lệ nợ xấu và nợ cơ cấu tiềm ẩn chuyển thành nợ xấu. Trong năm 2020, nợ cơ cấu tiềm ẩn chuyển thành nợ xấu của một số TCTD tăng do một số nguyên nhân khách quan (cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ theo Thông tư 01/2020/TT-NHNN đối với những khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 theo chủ trương, chỉ đạo của Chính phủ, NHNN; cơ cấu lại thời hạn trả nợ đối với những khách hàng vay theo Nghị định 55/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 của Chính phủ), làm giảm điểm xếp hạng đối với tiêu chí Chất lượng tài sản của TCTD. Do đó, để đảm bảo đánh giá đầy đủ và khách quan hơn, đề nghị Ban soạn thảo xem xét loại trừ một số các yếu tố khách quan làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của NHTM khi tính điểm chỉ tiêu này.

1.3. Chỉ tiêu Tỷ lệ chi phí hoạt động so với tổng thu nhập hoạt động: 

Với những NHTM có mạng lưới chi nhánh và phòng giao dịch phủ rộng khắp cả nước, chủ yếu phục vụ khách hàng với món vay nhỏ lẻ, số lượng nhiều nên chi phí hoạt động của ngân hàng đó luôn cao hơn so với các ngân hàng khác. Do đó, đề nghị Ban soạn thảo xem xét phân loại và tính điểm chỉ tiêu này để phù hợp hơn với tình hình thực tế.

2. Tại Khoản 3 Điều 3 Thông tư 52/2018/TT-NHNN về giải thích đối với thuật ngữ “Nợ cơ cấu tiềm ẩn trở thành nợ xấu”, đề nghị Ban soạn thảo loại trừ nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ theo Thông tư 01/2020/TT-NHNN quy định về việc TCTD, Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn giảm lãi phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng do dịch Covid-19 và các văn bản sửa đổi, bổ sung khỏi nợ cơ cấu tiềm ẩn trở thành nợ xấu.

3. Điểm a Khoản 2 Điều 8 Thông tư 52/2018/TT-NHNNquy định nhóm chỉ tiêu định tính gồm “tuân thủ các quy định pháp luật về hoạt động cho vay”.  Đề nghị Ban soạn thảo sửa đổi  quy định tại điểm này thành “tuân thủ các quy định pháp luật về hoạt động cấp tín dụng” do khái niệm cấp tín dụng rộng hơn và đã bao hàm cả hoạt động cho vay, cụ thể hoạt động cấp tín dụng bao gồm nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, đầu tư trái phiếu doanh nghiệp, phát hành thẻ tín dụng, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác theo quy định của pháp luật.

4. Điều 9 Thông tư 52/2018/TT-NHNN quy định về tiêu chí quản trị điều hành của TCTD được đánh giá, cho điểm theo các nhóm chỉ tiêu định lượng và định tính. Đối với chỉ tiêu định tính, đề nghị Ban soạn thảo bổ sung quy định về điểm cộng nếu các TCTD tuân thủ trước thời hạn các quy định của pháp luật về tiền tệ, ngân hàng, về tỷ lệ an toàn, các chuẩn mực về tỷ lệ an toàn của quốc tế (như Basel 3, ILAAP…) hoặc chủ động xây dựng/áp dụng các chuẩn mực tiên tiến quốc tế về quản lý khi cơ quan quản lý nhà nước chưa có yêu cầu (áp dụng Basel III, IV, ILAAP-ECB (Internal Liquidity Adequacy Assessment Process - European Central Bank), áp dụng sớm IFRS9…). Ngoài ra, đề nghị Ban soạn thảo bổ sung khái niệm “Tổng thu nhập hoạt động” để tính toán chỉ tiêu định lượng “Tỷ lệ chi phí hoạt động so với Tổng thu nhập hoạt động”.

- Điểm e Khoản 2 Điều 9 Thông tư 52/2018/TT-NHNN: Số lượng báo cáo thống kê theo kỳ ngày/tháng /quý/năm phải thực hiện rất lớn nên việc sai sót là không thể không xảy ra, do vậy cần xác định mức nào là mức trọng yếu mới trừ hoặc tách riêng lỗi nào là trọng yếu và trừ bao nhiêu điểm còn các lỗi không xếp vào mức trọng yếu thì cần cho phép một tỷ lệ chậm nộp báo cáo nhất định mới bắt đầu tiến hành trừ điểm. Ngoài ra trong quá trình vận hành các TCTD cũng thường xuyên phát sinh các báo cáo đột xuất theo yêu cầu của NHNN nên không thể lúc nào cũng có thể đảm bảo được tiến độ báo cáo theo đúng yêu cầu. Do đó, đề nghị Ban soạn thảo đưa ra tiêu chí cụ thể xác định mức độ vi phạm để trừ điểm đối với việc tuân thủ chế độ thông tin, báo cáo và đồng thời cần có một giới hạn cho phép sai sót đối với việc tuân thủ chế độ báo cáo thống kê.

- Điểm g Khoản 2 Điều 9 Thông tư 52/2018/TT-NHNN, đề nghị Ban soạn thảo làm rõ “quy định pháp luật về tiền tệ, ngân hàng khác”, để bảo đảm việc áp dụng quy định pháp luật của các TCTD được thống nhất, chính xác và đầy đủ, do: (i) Phạm vi theo dõi, báo cáo rất rộng, không cụ thể, liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau; (ii) Không có hướng dẫn, phương pháp cụ thể để đánh giá.

5. Điều 14 Thông tư 52/2018/TT-NHNN:

- Hiện tại Thông tư 52/2018/TT-NHNN đang chia ngưỡng tính điểm của từng chỉ tiêu định lượng thành 4 ngưỡng với khoảng cách giữa 2 ngưỡng khá lớn. Quy định như vậy sẽ chưa phản ánh đúng sự khác biệt giữa kết quả của các TCTD với nhau và của cùng TCTD nhưng ở các thời kì khác nhau. Để đảm bảo phản ánh đúng chất lượng hoạt động của các TCTD, đề nghị Ban soạn thảo quy định theo hướng rút ngắn khoảng cách giữa các ngưỡng tính điểm từng chỉ tiêu định lượng. Ví dụ: tăng số ngưỡng lên thành 9 ngưỡng (thay vì 4 ngưỡng như hiện tại) và sử dụng thang điểm10 (thay vì thang điểm 5 như hiện tại).

- Về chỉ tiêu“2.1 Tỷ lệ nợ xấu, nợ xấu đã bán cho VAMC chưa xử lý được và nợ cơ cấu tiềm ẩn trở thành nợ xấu so với tổng nợ cộng thêm các khoản nợ xấu đã bán cho VAMC chưa xử lý được”: Đề nghị Ban soạn thảo làm rõ định nghĩa “Nợ cơ cấu tiềm ẩn trở thành nợ xấu” bao gồm những cấu phần nào (nợ cơ cấu theo Thông tư 09/2014/TT-NHNN và Quyết định 780/QĐ-NHNN, cơ cấu theo Nghị định 55, cơ cấu nợ Covid theo Thông tư 01/2020/TT-NHNN, Thông tư 03/2021/TT-NHNN, nợ tiềm ẩn theo kết luận thanh tra…); và quy mô “nợ cơ cấu tiềm ẩn trở thành nợ xấu” được hiểu là phần dư nợ được cơ cấu hay toàn bộ dư nợ của khách hàng có nợ được cơ cấu. Ví dụ: Khách hàng A có tổng dư nợ là 10 tỷ, trong đó dư nợ cơ cấu giữ nhóm là 2 tỷ. Vậy quy mô dư nợ được tính vào “nợ cơ cấu tiềm ẩn trở thành nợ xấu” là 2 tỷ hay 10 tỷ?

Trên cơ sở hướng dẫn cụ thể của NHNN về cách xác định quy mô “nợ cơ cấu tiềm ẩn trở thành nợ xấu”, Ban soạn thảo xác định lại các ngưỡng điểm cho chỉ tiêu 2.1 trên cơ sở thống kê thực tế từ các TCTD để đảm bảo phân hạng phù hợp với đặc điểm thị trường.

- Các tỷ lệ như tỷ lệ an toàn vốn, tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn và tỷ lệ dư nợ cho vay so với tổng tiền gửi là các tỷ lệ đảm bảo an toàn hoạt động TCTD đã được quy định các ngưỡng tuân thủ tại Thông tư 41/2016/TT-NHNN và Thông tư 22/2019/TT-NHNN. Các ngưỡng tuân thủ đặt ra tại Thông tư 41/2016/TT-NHNN và Thông tư 22/2019/TT-NHNN là mức đảm bảo sự an toàn trong hoạt động ngân hàng. Do đó, đề nghị Ban soạn thảo điều chỉnh nội dung tại dự thảo như sau:

+ Tỷ lệ an toàn vốn: Nếu đạt ngưỡng >=8% thì đạt 4 điểm thay vì 3 điểm như hiện tại.

+ Tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn: Đề nghị Ban soạn thảo xác định lại các ngưỡng điểm để đảm bảo phân hạng phù hợp với đặc điểm thị trường trên cơ sở: Ngưỡng điểm của chỉ tiêu này ở thang điểm 4 và 5 (tương ứng tỷ lệ của TCTD quy mô lớn dưới 30% và 25%) là rất khó đạt được trong bối cảnh hiện tại và chưa phù hợp với lộ trình mà NHNN đã đưa ra tại Thông tư 08/2020/TT-NHNN về sửa đổi, bổ sung Thông tư 22/2019/TT-NHNN, theo đó đến 01/10/2023 các TCTD mới phải đưa tỷ lệ về 30%, đặc biệt trong bối cảnh đại dịch Covid-19 hiện nay, việc cơ cấu lại nợ để hỗ trợ nền kinh tế và các doanh nghiệp có thể khiến dư nợ chuyển từ ngắn hạn sang trung, dài hạn, tác động đến cơ cấu nguồn vốn cho vay của các tổ chức tín dụng, thêm nữa mặt bằng lãi suất huy động theo chiều hướng giảm, ngân hàng cũng rất khó huy động vốn dài hạn để giảm nhanh tỷ lệ.

Nếu đạt ngưỡng <=37% thì đạt ngưỡng 4 điểm thay vì 2 điểm như hiện tại.

+ Tỷ lệ dư nợ cho vay so với tổng tiền gửi: Nếu đạt ngưỡng <=85% thì đạt ngưỡng 4 điểm thay vì 3 điểm như hiện tại.

- Đối với chỉ tiêu “Tỷ lệ dư nợ cấp tín dụng của các khách hàng có dư nợ cấp tín dụng lớn so với dư nợ cấp tín dụng đối với tổ chức kinh tế, cá nhân”: Để kiểm soát rủi ro này, nhiều ngân hàng đã chủ động nghiên cứu, áp dụng các thông lệ, chuẩn mực quốc tế tiên tiến; hệ thống kiểm soát nội bộ được tổ chức, vận hành đảm bảo kiểm soát hiệu quả thông qua cơ chế phân cấp, phân quyền và phân định tráchnhiệm phù hợp, tránh xung đột lợi ích; đảm bảo đầy đủ các chốt kiểm soát, giám sát hiệu quả theo từng quy trình nghiệp vụ; cơ chế giám sát trước - trong - sau được vận hành xuyên suốt và nhuần nhuyễn. Do đó, đề nghị Ban soạn thảo điều chỉnh ngưỡng chấm điểm đối với chỉ tiêu này phù hợp để phản ánh đúng hơn năng lực quản trị rủi ro tín dụng.

- Ngưỡng tính điểm từng chỉ tiêu định lượng đưa ra khái niệm “Chỉ tiêu định lượng có giá trị càng lớn thì mức độ rủi ro càng thấp” chưa hoàn toàn chính xác mà sẽ tiềm ẩn rủi ro khi các chỉ tiêu này có giá trị quá lớn so với mức quy định của NHNN. Ví dụ:

+ Mục 5.1: Đối với tỷ lệ tài sản có tính thanh khoản cao bình quân, các công ty tài chính không có nguồn vốn giá rẻ từ dân cư, nếu duy trì tỷ lệ này trên 15% (để được điểm xếp hạng tín dụng cao) là không hiệu quả và khá lãng phí. Điều này càng thể hiện rõ nét hơn ở giai đoạn hiện nay, khi thị trường khủng hoảng thừa vốn, các TCTD đang duy trì tỷ lệ này tốt nhưng nhiều khả năng là các TCTD đang không thể giải ngân và không thể đầu tư có hiệu quả.

+ Mục 1.1 Tương tự,  đối với tỷ lệ an toàn vốn, nếu mức 9% là ngưỡng an toàn theo quy định của NHNN thì khi duy trì mức trên 20% (để đạt được mức điểm xếp hạng cao nhất) đang tiềm ẩn rủi ro không tạo được đòn bẩy tài chính, giảm khả năng sinh lời trên vốn góp.

- Các ngưỡng tính điểm tỷ lệ nợ xấu (Mục 2.1) đối với công ty tài chính lần lượt là 1%-3%-5%-7% đề xuất  xem xét lại để phù hợp với thực tế. Theo thống kê tỷ lệ nợ xấu của các công ty tài chính có thị phần lớn trên thị trường giao động quanh mức 6-7% (ví dụ FE tỷ lệ này năm 2020 là 6,6%; HD Sài gòn 5,8%; Home Credit 7,8% - dẫn chiếu theo các thông tin được công bố tại vietnamfinance.com), số liệu này mới chỉ thể hiện ở mảng cho vay tiêu dùng, chưa tính đến nợ xấu đã bán cho VAMC chưa xử lý được (nếu có) và nợ cơ cấu tiềm ẩn trở thành nợ xấu như quy định của Thông tư. Đây là một chỉ tiêu chiếm tỷ trọng cao trong cấu phần đánh giá chỉ tiêu định lượng chất lượng tài sản, và  chỉ tiêu chất lượng tài sản lại chiếm tỷ trọng cao nhất trong  nhóm chỉ số.Do đó, việc đánh giá chỉ tiêu này có ảnh hưởng đáng kể tới kết quả đánh giá chung.

6. Đề nghị xem xét bổ sung quy định về thời hạn và phương thức báo cáo kết quả tự chấm điểm xếp hạng của TCTD, do Thông tư 52/2018/TT-NHNN chỉ quy định về tần suất, thời gian thực hiện, phê duyệt xếp hạng của NHNN (Điều 21). Năm 2019, 2020, các TCTD thực hiện báo cáo kết quả tự chấm điểm xếp hạng chỉ tiêu định lượng gửi NHNN bằng file điện tử theo yêu cầu tại văn bản số 1872/NHNN-TTGSNH ngày 19/3/2020 và văn bản số 402/CNTT5 ngày 31/3/2020; chưa thể hiện đầy đủ và chưa giải trình chi tiết được các nội dung liên quan.

7. Tại Điều 22 Thông tư 52/2018/TT-NHNN quy định về nội dung thông báo kết quả xếp hạng đối với TCTD bao gồm hạng và tổng điểm xếp hạng, trong khi đó tại dự thảo Thông tư, điểm nhóm chỉ tiêu định tính được tính trên cơ sở xác định các hành vi vi phạm quy định pháp luật được phát hiện trong năm xếp hạng và các vi phạm phát hiện trước năm xếp hạng đã/chưa khắc phục xong tại từng chỉ tiêu. Do vậy, đề nghị Ban soạn thảo xem xét chỉnh sửa, bổ sung thông báo kết quả xếp hạng đối với TCTD theo hướng thông báo đầy đủ nội dung gồm hạng, tổng điểm xếp hạng, điểm chi tiết của từng nhóm chỉ tiêu định lượng và nhóm chỉ tiêu định tính để TCTD có cơ sở rà soát, giải trình và thực hiện khắc phục các vi phạm (nếu có), cải thiện điểm xếp hạng các năm tiếp theo.

8. Các nội dung chấm điểm tại Thông tư 52/2018/TT-NHNN hiện hành và dự thảo bổ sung đều đang chấm điểm dưới dạng tĩnh; đơn lẻ từng năm và căn cứ chủ yếu vào số liệu của tổ chức tại một thời điểm 31/12, chưa phân tích tổ chức dưới dạng động ở 1 chu kỳ hoạt động qua các năm hay trong mối tương quan với các đơn vị cùng nhóm. Vì vậy, đề xuất bổ sung chỉ tiêu đánh giá  khi nhìn nhận quá trình vận động của chính tổ chức qua các năm, việc cải thiện các chỉ số (khả năng sinh lời, an toàn vốn, thanh khoản…), cải thiện tỷ trọng (cấu trúc vốn, cấu trúc tài sản sinh lời...) trong xu thế và định hướng phát triển của tổ chức qua các năm. Đồng thời, bổ sung chỉ tiêu  đánh giá tổ chức trong mối tương quan với các tổ chức khác cùng nhóm về sản phẩm đặc thù, thị phần, định hướng, chiến lược kinh doanh...để có bức tranh toàn diện về hoạt động của tổ chức trong môi trường có sự ảnh hưởng và tác động lẫn nhau.

Các ý kiến góp ý đối với dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 52/2018/TT-NHNN, Hiệp hội Ngân hàng gửi Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng xem xét, tổng hợp.

Tính lãi tiền gửi
VNĐ
%/year
month
Tính lãi tiền gửi

Tính toán khoản vay
VNĐ
%/year
month
Tính toán khoản vay