Tính bất định của dịch Covid-19 do chủng biến thể Delta là điều các nhà dịch tễ đã định đoán được, song với nền kinh tế, độ trễ của dịch Covid-19 (sau khi đã dập tắt) còn là một khoảng thời gian rất dài mới có thể khôi phục lại được.
Ngân hàng dốc hầu bao hỗ trợ doanh nghiệp
Từ khi dịch Covid-19 bùng phát đến nay, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách để hỗ trợ doanh nghiệp, trong đó phải kể đến Thông tư 01 và các Thông tư 03, Thông tư 14 sửa đổi về cơ cấu nợ, miễn giảm lãi suất, phí cho khách hàng chịu ảnh hưởng bởi dịch bệnh.
Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước cũng chỉ đạo các tổ chức tín dụng miễn giảm phí dịch vụ, giảm lãi suất cho vay mới để hỗ trợ doanh nghiệp và người dân. Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước, kết quả đến ngày 31/8/2021, lãi suất cho vay đến nay đã giảm khoảng 1,5-2% từ đầu năm 2020 đến nay.
Đồng thời, các tổ chức tín dụng đã miễn, giảm, hạ lãi suất cho trên 1,13 triệu khách hàng với dư nợ trên 1,58 triệu tỷ đồng; cho vay mới lãi suất thấp hơn so với trước dịch với doanh số lũy kế từ 23/01/2020 đến nay đạt 4,46 triệu tỷ đồng cho 628 nghìn khách hàng. Lũy kế từ 23/01/2020 đến 31/08/2021, tổng số tiền lãi tổ chức tín dụng miễn, giảm, hạ cho khách hàng khoảng 26 nghìn tỷ đồng. Bên cạnh đó, các tổ chức tín dụng đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ giữ nguyên nhóm nợ cho 215 nghìn khách hàng với dư nợ 227 nghìn tỷ đồng, lũy kế giá trị nợ được cơ cấu từ 23/01/2020 là khoảng 520 nghìn tỷ đồng.
Về giá trị hỗ trợ ước tính, trong 8 tháng đầu năm 2021 các ngân hàng, tổ chức tín dụng đã hỗ trợ nền kinh tế khoảng 34 nghìn tỷ đồng, tập trung chủ yếu vào miễn, giảm lãi suất đối với dư nợ hiện hữu và cho vay mới với lãi suất thấp hơn. Trong 4 tháng cuối năm, con số này là khoảng 20 nghìn tỷ đồng.
Như vậy, dự kiến tổng số tiền ngành ngân hàng hỗ trợ nền kinh tế năm 2021 là khoảng 54 nghìn tỷ đồng, tương đương gần 25% lợi nhuận ngành ngân hàng năm 2021. Nếu tính thêm cả con số trích lập dự phòng rủi ro (DPRR) bổ sung theo Thông tư 03 và Thông tư 14, số tiền của gói hỗ trợ còn lớn hơn (năm 2021, DPRR phải trích thêm theo Thông tư 03 là khoảng 42,6 nghìn tỷ đồng, còn theo Thông tư 14 là khoảng 69 nghìn tỷ đồng).
Mới đây, ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã công bố kết quả giảm lãi suất cho vay theo cam kết của 16 ngân hàng thương mại. Từ 15/7 - 31/8 các ngân hàng gồm VietinBank, Vietcombank, Agribank, BIDV, MB, LienVietPostBank, TPBank, VIB, ACB, SeABank, SHB, HDBank, MSB, VPBank, Techcombank và Sacombank (có dư nợ chiếm 75% tổng dư nợ nền kinh tế) đã giảm lãi cho khách hàng tổng cộng 8.865 tỷ đồng, đạt 43,01% so với cam kết. Các ngân hàng giảm lãi nhiều nhất, trong đó Agribank giảm tới 4.726 tỷ đồng, BIDV giảm cho khách hàng 1.032 tỷ đồng, VietinBank giảm 857 tỷ đồng, Vietcombank giảm 943 tỷ đồng.
Cần có cơ chế đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng
Đại dịch Covid-19 đã giúp nhận thức rõ hơn khái niệm dịch bệnh, bởi tính chất ảnh hưởng đến sức khoẻ, sinh mạng con người – lực lượng lao động trực tiếp tạo nên của cải vật chất, xã hội. Quy mô và tính chất tàn phá của dịch Covid-19 vượt qua một địa bàn, một lĩnh vực sản xuất, kinh doanh. Hệ lụy của dịch Covid-19 rõ ràng đã và đang ảnh hưởng sâu sắc đến toàn bộ nền kinh tế-xã hội: lực lượng lao động trong các nhà máy, khu công nghiệp, từ các doanh nghiệp lớn đến hộ hộ dinh doanh ở tất cả các ngành, lĩnh vực đều suy giảm. Bản thân những lao động không có việc làm do phải thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19 không có thu nhập, ảnh hưởng đến đời sống và trật tự xã hội. Sản xuất, kinh doanh ở các doanh nghiệp nói chung bị ngưng chệ, đẫn đến không có doanh thu, không thực hiện được các nghĩa vụ với người lao động, với ngân sách nhà nước, với những khoản nợ vay ngân hàng… cứ thế, xoay vần.
Theo Bộ Tài chính, lũy kế thu ngân sách nhà nước 9 tháng năm 2021 ước đạt 1.077,4 nghìn tỷ đồng, bằng 80,2% dự toán, tăng 9,2% so với cùng kỳ năm 2020. Trong đó, thu nội địa ước đạt 872,28 nghìn tỷ đồng, bằng 77% dự toán, tăng 5,9% so cùng kỳ năm 2020. Từ khi dịch bệnh đợt 4 bùng phát trở lại, diễn biến thu nội địa có xu hướng giảm, trong đó thu nội địa từ thuế, phí (không kể yếu tố gia hạn) từ mức tăng 9,1% của tháng 6, sang tháng 7 giảm 10,8%, tháng 8 giảm 21% và tháng 9 giảm 26,5% so với cùng kỳ năm 2020. Do ảnh hưởng của dịch bệnh COVID-19 đến hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp, số thu từ hoạt động xuất nhập khẩu từ tháng 8 đến nay có xu hướng giảm mạnh (so với tháng 7, số thu tháng 8 giảm 19,1%; tháng 9 giảm 13,6%).
Tính bất định của dịch Covid-19 do chủng biến thể Delta là điều các nhà dịch tễ đã định đoán được, song với nền kinh tế, độ trễ của dịch Covid-19 (sau khi đã dập tắt) còn là một khoảng thời gian rất dài mới có thể khôi phục lại được. Điều này cho thấy, cần phải có ngay chính sách đặc biệt, với cơ chế đặc biệt linh hoạt với các biện pháp đặc biệt về pháp lý, về kỹ thuật nghiệp vụ để hỗ trợ các doanh nghiệp ứng phó hiệu quả với dịch Covid-19. Doanh nghiệp trụ vững, khôi phục, duy trì hoạt động sản xuất, kinh doanh, đảm bảo an toàn các chuỗi ứng, giải phóng các đơn hàng thì, thị trường phát triển lành mạnh, nền kinh tế phục hồi, phát triển.
Nếu nhìn toàn cảnh dịch Covid-19 từ đầu năm 2020 đến nay, trên giác độ hỗ trợ doanh nghiệp, các ngân hàng, tổ chức tín dụng đã đặt mình vào trong mối quan hệ cộng sinh, song cũng đang đứng trước nguy cơ tăng tỷ lệ nợ xấu. Theo Ngân hàng Nhà nước, dự kiến tỷ lệ nợ xấu nội bảng và nợ xấu tiềm ẩn cuối năm nay sẽ ở mức từ 7,1% - 7,7%, xấp xỉ 8% khi các ngân hàng thực hiện cơ cấu lại nợ, giãn hoãn theo Thông tư 01, Thông tư 03 và Thông tư 14. Báo cáo tài chính quý II của gần 30 ngân hàng với tổng số dư nợ xấu đến thời điểm ngày 30/6/2021 đã tăng 4,5% so với cuối năm trước, lên gần 125.000 tỷ đồng, nhiều ngân hàng ghi nhận nợ xấu tăng trưởng đến 2 con số, điều này ảnh hưởng rất lớn tới sức khỏe hệ thống ngân hàng, khi vừa đáp ứng vốn cho nền kinh tế đồng thời phải có các biện pháp đảm bảo an toàn, sức khỏe của toàn hệ thống. Thực hiện cơ cấu lại nợ, giãn hoãn là cho vay dưới chuẩn, cũng là nguyên nhân sâu xa làm tăng nợ xấu. Độ trễ của tác động từ dịch sẽ còn tác động cả sang năm 2022, ngân hàng, các tổ chức tín dụng sẽ vẫn gặp rất nhiều khó khăn, xu hướng nợ xấu sẽ còn tăng mạnh trong thời gian tới. Về pháp lý, ngân hàng là doanh nghiêp hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, đi vay để cho vay. Giữ vai trò huyết mạch nền kinh tế, dòng chảy tín dụng cẩn phải được bảo đảm an toàn bởi chính sách tiền tệ quốc gia và các quy định của luật pháp.
Tại Điều 12.2 của Nghị định 55/NĐ-CP ngày 09/6/2015 của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn nêu rõ: “Trường hợp tiên tai, dịch bệnh xảy ra trên phạm vi rộng, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) tổng hợp, đánh giá cụ thể thiệt hại để báo cáo Thủ tướng Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt nam và Bộ Tài chính cho phép tổ chức tín dụng được phép khoanh nợ không tính lãi đối với dư nợ bị thiệt hại trong thời gian tối đa 02 (hai) năm và các khoản nợ khoanh được giữ nguyên nhóm nợ như đã phân loại trước khi khoanh nợ. Số tiền lãi tổ chức tín dụng không thu được do đã thực hiện khoanh nợ cho khách hàng được ngân sách nhà nước cấp tương ứng”.
Đã đến lúc, ngân hàng, các tổ chức tín dụng cần được Chính phủ xem xét đến giải pháp “Khoanh nợ” như đối với chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn. Đây được xem như chính sách tín dụng đặc biệt trong trường hợp đặc biệt bởi dịch Covid-19 xảy ra trong phạm vi rộng, tàn phá nền kinh tế. Giải pháp đặc biệt này nhằm mục tiêu vực dậy, duy trì sức sản xuất; đồng thời là cứu cánh giúp các tổ chức tín dụng (doanh nghiệp ngân hàng) vượt qua vướng mắc pháp lý khi phải tiến hành cho vay đối với các tổ chức, cá nhân đang có dư nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ. Với một chính sách tương tự như Nghị định 55 và sự vào cuộc của ngân sách nhà nước sẽ tháo gỡ rất nhiều khó khăn, vướng mắc về pháp lý, nguồn lực cho hệ thống ngân hàng, các tổ chức tín dụng.