Theo quy định tại Luật Bảo hiểm tiền gửi, hạn mức trả tiền bảo hiểm là số tiền tối đa mà tổ chức bảo hiểm tiền gửi trả cho tất cả các khoản tiền gửi được bảo hiểm của một người tại một tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi khi phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm.
Vấn đề hạn mức luôn thu hút sự quan tâm của công chúng và đây là một trong những công cụ bảo vệ cũng như tác động trực tiếp đến người gửi tiền. Chính phủ dự kiến nâng hạn mức trả tiền bảo hiểm tiền gửi lên 125 triệu đồng.
Những năm đầu chính sách bảo hiểm tiền gửi được triển khai tại Việt Nam, hạn mức bảo hiểm tiền gửi của một cá nhân theo đó, từ năm 1999-2005, hạn mức bảo hiểm tiền gửi là 30 triệu đồng; từ 2005-2017 hạn mức là 50 triệu đồng và từ 2017 đến nay là 75 triệu đồng.
Việc tăng hạn mức bảo hiểm tiền gửi thể hiện sự quan tâm của Chính phủ đến sự an toàn của hệ thống tài chính ngân hàng cũng như tạo niềm tin của người dân vào hệ thống. Đồng thời thể hiện sự cam kết mạnh mẽ của Chính phủ, NHNN và cơ quan Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của người gửi tiền.
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền
Tăng hạn mức để bảo vệ người gửi tiền được tốt hơn, tạo niềm tin vào hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng, qua đó góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống các tổ chức tín dụng, đảm bảo sự phát triển an toàn, lành mạnh của hoạt động ngân hàng.
Theo NHNN, hạn mức 125 triệu đồng có thể bảo hiểm toàn bộ lên đến 90,9% người gửi tiền trong hệ thống ngân hàng và cũng phù hợp với thông lệ quốc tế, tiệm cận gần mức theo khuyến nghị của Hiệp hội Bảo hiểm quốc tế IADI là trong khoảng 90-95%. Đối tượng thụ hưởng đầu tiên chính là những người gửi tiền.
Phù hợp với tình hình kinh tế vĩ mô và thông lệ quốc tế
Đến nay, có nhiều chỉ số kinh tế vĩ mô đã khác, việc điều chỉnh hạn mức trả tiền bảo hiểm theo hướng tăng lên để phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam đã được các cơ quan chức năng, trong đó có Ngân hàng Nhà nước và Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam nghiên cứu, tính toán và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Trong bối cảnh kinh tế vĩ mô, hệ thống ngân hàng Việt Nam có nhiều thay đổi, việc điều chỉnh hạn mức trả tiền bảo hiểm là cần thiết. Những năm gần đây, kinh tế vĩ mô củaViệt Nam được duy trì ổn định, lạm phát được kiểm soát ở mức thấp, tăng trưởng kinh tế dự báo tiếp tục khả quan. GDP bình quân đầu người danh nghĩa (chưa tính đến yếu tố lạm phát) của Việt Nam tăng trưởng tốt, năm 2019 đạt tương đương 2.600 USD.
Theo đó, hạn mức bảo hiểm tiền gửi 75 triệu đồng hiện nay chỉ bằng 1,25 lần GDP bình quân đầu người năm 2019. Trong khi đó, theo khảo sát thường niên của IADI năm 2018, Thái Lan và Indonesia có hạn mức bảo hiểm tiền gửi ở mức rất cao so với GDP bình quân đầu người, lần lượt là 62,8 lần và 38,5 lần với tỷ lệ bảo vệ toàn bộ người gửi tiền lên đến 99,9%. Đa số các quốc gia còn lại quy định hạn mức bảo hiểm tiền gửi không quá 5 lần GDP bình quân đầu người.
Phù hợp với năng lực tài chính của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế và hệ thống ngân hàng, năng lực tài chính của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam cũng gia tăng đáng kể. Sau hơn 20 năm hoạt động, nhờ quá trình tích lũy từ phí bảo hiểm tiền gửi, đầu tư theo quy định của pháp luật và quản lý tài chính bài bản, nguồn vốn của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam tăng trưởng ở mức cao.
Từ nguồn vốn được cấp ban đầu là 1.000 tỷ đồng, đến nay tổng tài sản của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã tăng lên gần 68 nghìn tỷ đồng, trong đó quỹ dự phòng nghiệp vụ (thể hiện khả năng chi trả của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam theo quy định của Luật Bảo hiểm tiền gửi) đạt hơn 61 nghìn tỷ đồng. Đây là nền tảng quan trọng giúp Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam có đủ khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ người gửi tiền và tham gia có hiệu quả vào quá trình tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng thông qua hoạt động hỗ trợ tài chính.
Có thể nói, việc điều chỉnh tăng hạn mức chi trả bảo hiểm tiền gửi là phù hợp và rất cần thiết nhằm phát huy vai trò của chính sách bảo hiểm tiền gửi trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, nâng cao niềm tin công chúng, góp phần đảm bảo sự ổn định của các tổ chức tín dụng và đảm bảo phát triển an toàn hoạt động ngân hàng.