Tăng trưởng toàn cầu dự kiến sẽ đạt 2,7 % vào năm 2025, khi lạm phát tiếp tục chậm lại, lãi suất giảm và thương mại tăng trưởng vững chắc. Triển vọng ngắn hạn đang có khác biệt, với các nền kinh tế lớn tăng trưởng chậm lại trong khi một số nền kinh tế đang phát triển và thị trường mới nổi (EMDE) có những cải thiện nền tảng vững chắc.
Theo WB, hoạt động kinh tế toàn cầu tiếp tục yếu đi trong bối cảnh chính sách thắt chặt tiền tệ, điều kiện tài chính hạn chế và tăng trưởng thương mại toàn cầu yếu. Sau đợt suy thoái mạnh vào năm 2022 và 2023, tăng trưởng sản lượng toàn cầu đang sẽ giảm dần vào năm 2024, đánh dấu lần năm thứ ba giảm tốc liên tiếp. Xung đột leo thang gần đây ở Trung Đông làm gia tăng rủi ro địa chính trị và triển vọng không chắc chắn trong thị trường hàng hóa với những bất lợi tiềm ẩn tác động tới tăng trưởng toàn cầu. Điều này diễn ra trong bối cảnh kinh tế thế giới đang tiếp tục đối phó với tác động kéo dài của những cú sốc chồng chéo của bốn năm qua.
Triển vọng tăng trưởng toàn cầu có sự phân hóa
Trong ngắn hạn, triển vọng tăng trưởng đang có sự khác biệt giữa các nền kinh tế. Tăng trưởng của các nền kinh tế tiên tiến nói chung và của Trung Quốc được dự đoán sẽ chậm lại đáng kể vào năm 2024 và xuống mức thấp hơn nhiều tốc độ trung bình giai đoạn 2010 – 2019. Trong khi đó, tăng trưởng chung được cải thiện tại các EMDE có xếp hạng tín dụng cao, gần bằng mức trung bình trước đại dịch. Mặc dù tốc độ tăng trưởng chung dự kiến sẽ ổn định từ mức thấp năm 2023, triển vọng cho nhiều quốc gia EMDE vẫn còn bấp bênh, do nợ và chi phí tài chính tăng cao cũng như những tác động của xung đột. WB dự báo các nền kinh tế tiên tiến sẽ chỉ đạt mức tăng trưởng 1,2% năm 2024 do cầu nội địa giảm sút. Trong đó, Mỹ dự kiến tăng trưởng 1,6% năm 2024 và 1,7% năm 2025. Khu vực đồng tiền chung châu Âu dự báo tăng trưởng 0,7% năm 2024 và đạt mức 1,7% vào năm sau. Nhật Bản cũng được dự báo tăng trưởng chậm lại với mức 0,9% trong năm nay và 0,8% năm 2025. Nền kinh tế Trung Quốc được cho là sẽ có mức tăng chậm nhất trong vòng ba thập kỷ với 4,5% trong năm 2024 và 4,3% vào năm 2025.
Tăng trưởng ở EMDE được dự báo ở mức trung bình 3,9%/năm trong giai đoạn 2024 - 2025. Sự tăng trưởng của Trung Quốc được cho là sẽ chậm lại đáng kể trong năm nay do tâm lý người tiêu dùng lo ngại cùng sự suy thoái trong lĩnh vực bất động sản ảnh hưởng đến nhu cầu và hoạt động. Nếu không bao gồm Trung Quốc, tăng trưởng của các EMDE sẽ ổn định từ mức 3,2% năm 2023 lên 3,5% năm 2024 và 3,8% vào năm 2025. Đà tăng trưởng được dự báo tăng cho 2/3 các EMDE trong năm nay. Mặc dù vậy, sự phục hồi của các EMDE sau suy thoái toàn cầu 2020 còn khá khiêm tốn. Nhìn chung, mức tăng trưởng của các EMDE được dự báo yếu hơn so với những năm 2010, phần nào phản ánh tiềm năng tăng trưởng chậm lại của Trung Quốc.
Sự tăng trưởng này phản ánh một sự phục hồi trong thương mại và cải thiện nhu cầu trong nước ở một số nền kinh tế lớn, khi lạm phát tiếp tục được kiểm soát. Tuy nhiên, chi phí đi vay tăng cao sẽ tiếp tục thu hẹp không gian tài chính ở các EMDE: Lợi suất trái phiếu bằng đô la Mỹ ở mức cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP danh nghĩa ở nhiều quốc gia, đặc biệt là những nước có mức độ xếp hạng tín nhiệm tín dụng thấp hơn. Mặc dù tăng trưởng ở các nước thu nhập thấp (LIC) được dự báo sẽ ổn định, nhưng điều này sẽ theo sau sự phục hồi yếu ớt từ năm 2020, với bạo lực và bất ổn chính trị ở một số nước cắt giảm hoạt động năm ngoái.
Nhìn chung, sự phục hồi của các EMDE từ sau suy thoái do đại dịch năm 2020 vẫn còn khiêm tốn. Điều này phản ánh những tác động tiêu cực của những cơn gió ngược như: điều kiện tài chính toàn cầu chặt chẽ, sự phục hồi yếu của thương mại toàn cầu, thắt chặt chính sách tiền tệ trong nước để kiểm soát lạm phát, sự suy thoái ở Trung Quốc, cũng như xung đột gia tăng ở một số nơi. Nó cũng phản ánh xu hướng giảm dài hạn về tiềm năng tăng trưởng của các EMDE, bao gồm cả Trung Quốc, do đầu tư và tăng năng suất giảm tốc, lực lượng lao động tăng chậm lại trong bối cảnh dân số già đi và lợi ích tăng trưởng giảm dần của việc cải thiện giáo dục và sức khỏe.
Lạm phát toàn cầu và lạm phát cơ bản vẫn tiếp tục giảm từ mức đỉnh năm 2022. Tuy nhiên, lạm phát vẫn vượt mục tiêu ở hầu hết các nền kinh tế tiên tiến và khoảng một nửa số EMDE theo đuổi mục tiêu lạm phát. Lạm phát toàn cầu sau năm 2024 được dự đoán sẽ tiếp tục ở mức trên mức trung bình giai đoạn 2015 - 2019. Thắt chặt tiền tệ ở các nền kinh tế tiên tiến đang đến giai đoạn cuối, nhưng lãi suất chính sách thực tế dự kiến sẽ giữ ở mức cao trong một thời gian, vì lạm phát chỉ quay trở lại mục tiêu một cách từ từ. Điều này sẽ duy trì lập trường chính sách tiền tệ của các nền kinh tế tiên tiến trong ngắn hạn, theo sau mức tăng lãi suất chính sách thực tế lớn nhất và nhanh nhất của Hoa Kỳ từ đầu những năm 1980.
Thương mại toàn cầu năm 2023 tăng chậm nhất bên ngoài các cuộc suy thoái toàn cầu trong 50 năm qua, với sự sụt giảm các hợp đồng thương mại hàng hóa trong bối cảnh sản xuất công nghiệp toàn cầu thiếu hụt. Thương mại dịch vụ vẫn tiếp tục để phục hồi sau ảnh hưởng của đại dịch, nhưng tại tốc độ chậm hơn dự kiến trước đó. Tăng trưởng thương mại toàn cầu dự kiến sẽ đạt 2,3% vào năm 2024, phần nào phản ánh sự phục hồi nhu cầu về hàng hóa và rộng hơn là trong nền kinh tế tiên tiến thương mại.
Cuộc xung đột gần đây ở Trung Đông cho đến nay vẫn chỉ có tác động không đáng kể lên giá cả hàng hóa. Nhìn chung, trong năm 2023, hầu hết giá hàng hóa suy yếu ở mức độ khác nhau; tuy nhiên vẫn ở trên mức trước đại dịch. Mặc dù sự biến động gần đây được gây ra chủ yếu bởi xung đột, và giả sử căng thẳng không leo thang hơn nữa, giá dầu trung bình năm 2024 được dự đoán sẽ giảm xuống do tăng trưởng toàn cầu suy yếu và sản lượng dầu tăng. Giá kim loại có nguy cơ giảm trở lại sự tăng trưởng chậm hơn ở Trung Quốc càng đè nặng lên nhu cầu. Giá thực phẩm dự kiến sẽ giảm hơn nữa trong năm nay trong bối cảnh nguồn cung dồi dào nhưng vẫn ở mức cao.Trong bối cảnh đó, tăng trưởng toàn cầu được ước tính đã suy yếu vào năm ngoái xuống còn 2,6% trong năm 2023. Mặc dù con số này cao hơn 0,5 điểm phần trăm so với dự báo tháng 6 năm ngoái, chủ yếu là do tốc độ tăng trưởng tốt hơn dự kiến ở Hoa Kỳ. Tăng trưởng toàn cầu được dự báo sẽ tiếp tục chậm lại, xuống còn 2,4% vào năm 2024. Sự giảm tốc này phản ánh sự suy yếu thị trường lao động, giảm dự trữ tiết kiệm, nhu cầu tích tụ với dịch vụ giảm sút, cùng những tác động trễ của chính sách tiền tệ thắt chặt và các biện pháp củng cố tài khóa.
Các rủi ro đối với triển vọng toàn cầu
Các rủi ro đối với triển vọng vẫn nghiêng theo hướng tiêu cực, mặc dù chúng đã phần nào trở nên cân bằng hơn kể từ tháng 6/2023, sau khi lạm phát giảm và hệ thống ngân hàng ở các nền kinh tế tiên tiến dần ổn định sau căng thẳng đầu năm ngoái. Xung đột gần đây ở Trung Đông và cuộc chiến Nga - Ukraine đang gia tăng mạnh mẽ rủi ro địa chính trị. Sự gia tăng căng thẳng những xung đột này, hoặc các căng thẳng địa chính trị ở những nơi khác, có thể có tác động tiêu cực toàn cầu thông qua thị trường hàng hóa và tài chính, thương mại và lòng tin. Các cuộc tấn công gần đây vào tàu thương mại quá cảnh Biển Đỏ đã bắt đầu làm gián đoạn các tuyến vận tải quan trọng, xói mòn sự tham gia trong mạng lưới cung cấp và tăng khả năng nút thắt lạm phát. Trong bối cảnh leo thang xung đột, nguồn cung năng lượng cũng có thể bị gián đoạn đáng kể, dẫn đến giá năng lượng tăng đột biến. Điều này sẽ có tác động lan tỏa đáng kể đến giá cả các hàng hóa khác và làm gia tăng bất ổn địa chính trị và kinh tế, từ đó có thể làm giảm đầu tư và dẫn tới suy yếu tăng trưởng.
Hơn nữa, một loạt các diễn biến có thể xảy ra, bao gồm cả lạm phát dai dẳng hơn kỳ vọng tại các nền kinh tế tiên tiến đòi hỏi lãi suất cao hơn giả định, hoặc tăng chênh lệch kỳ hạn trong lợi suất trái phiếu - có thể làm giảm khẩu vị rủi ro trên thị trường tài chính toàn cầu và sự thắt chặt mạnh mẽ điều kiện tài chính và ảnh hưởng tiêu cực đến các EMDE. Tăng trưởng yếu hơn ở Trung Quốc có thể gây ra sự giảm tốc mạnh hơn dự kiến trong các hoạt động kinh tế toàn cầu. Sự chậm lại của tăng trưởng tiềm năng toàn cầu có thể trở nên trầm trọng hơn bởi việc gia tăng các hạn chế thương mại và sự phân mảnh của thương mại và mạng lưới đầu tư. Hơn nữa, những tác động bất lợi của biến đổi khí hậu có thể trở nên tồi tệ hơn kỳ vọng, với sự thay đổi của mô hình thời tiết khiến thiên tai thường xuyên hơn và nghiêm trọng hơn, cũng như làm trầm trọng thêm tình trạng nghèo cùng cực.
Về mặt tích cực, hoạt động kinh tế phục hồi mạnh mẽ và lạm phát giảm ở Mỹ có thể được duy trì, ngay cả khi phải đối mặt với những cơn gió ngược, nếu được hỗ trợ bởi những cải thiện từ nguồn cung lao động. Do đó tăng trưởng của Mỹ có khả năng tiếp tục mạnh hơn dự kiến khi áp lực lạm phát giảm và chính sách tiền tệ được nới lỏng sẽ thúc đẩy hoạt động toàn cầu.
Trong bối cảnh đó, các nhà hoạch định chính sách phải đối mặt với những thách thức to lớn và những sự đánh đổi khó khăn. Hợp tác quốc tế cần tăng cường để giảm nợ, đặc biệt cho các nước nghèo nhất; giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu và thúc đẩy quá trình chuyển đổi năng lượng; tạo thuận lợi cho dòng chảy thương mại; và giảm bớt tình trạng mất an ninh lương thực. Các ngân hàng trung ương của EMDE cần đảm bảo rằng kỳ vọng lạm phát vẫn được duy trì và hệ thống tài chính có khả năng phục hồi tốt. Nợ công và chi phí đi vay tăng cao làm hạn chế không gian tài khóa và đặt ra những thách thức đáng kể cho các EMDE - đặc biệt là những nước có xếp hạng tín dụng thấp - tìm cách cải thiện tính bền vững tài chính đồng thời đáp ứng nhu cầu đầu tư. Các nhà xuất khẩu hàng hóa phải đối mặt với thách thức bổ sung trong việc ứng phó với biến động giá cả hàng hóa, nhấn mạnh sự cần thiết của các khuôn khổ chính sách mạnh mẽ. Để thúc đẩy tăng trưởng dài hạn, cần cải cách cơ cấu để đẩy nhanh đầu tư, cải thiện tăng trưởng năng suất và thu hẹp khoảng cách giới trong thị trường lao động.