Những năm qua, việc triển khai có hiệu quả Luật Bảo hiểm tiền gửi - hành lang pháp lý cao nhất cho hoạt động của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (DIV), quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền luôn được bảo đảm, sự ổn định của hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) cũng được duy trì.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt đạt được, vẫn còn một số vướng mắc, bất cập, cần thiết phải nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp thực tiễn; đảm bảo đồng bộ các quy định pháp luật liên quan nhằm bảo vệ tốt hơn quyền lợi người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống các TCTD.
Luật Bảo hiểm tiền gửi số 06/2012/QH13 được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 18/6/2012 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2013, đánh dấu bước phát triển lớn cũng như vai trò quan trọng của chính sách bảo hiểm tiền gửi tại Việt Nam. Theo đó, các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực bảo hiểm tiền gửi được điều chỉnh tại một đạo luật riêng, độc lập. Trước đây, những quan hệ này được điều chỉnh tại nhiều văn bản dưới luật khác nhau của các cấp có thẩm quyền.
Luật Bảo hiểm tiền gửi ra đời đã quy định đầy đủ các nội dung về hoạt động bảo hiểm tiền gửi như: Mục đích, nguyên tắc bảo hiểm tiền gửi, cơ quan quản lý Nhà nước về bảo hiểm tiền gửi, người được bảo hiểm tiền gửi, quyền và nghĩa vụ của tổ chức bảo hiểm tiền gửi, tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, chứng nhận tham gia bảo hiểm tiền gửi, phí bảo hiểm tiền gửi, thời điểm phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm, hạn mức trả tiền bảo hiểm…
Triển khai các quy định tại Luật Bảo hiểm tiền gửi, các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến hoạt động bảo hiểm tiền gửi, đặc biệt là các văn bản của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) về bảo hiểm tiền gửi, DIV đã từng bước đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động, tích cực tham gia xử lý quỹ tín dụng nhân dân (QTDND) yếu kém, quản lý an toàn nguồn vốn, nâng cao năng lực tài chính. Đặc biệt, DIV luôn chú trọng việc giám sát, kiểm tra đối với các QTDND.
Thông qua các nghiệp vụ giám sát, kiểm tra các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, DIV đã chủ động kiến nghị NHNN xem xét xử lý nếu phát hiện vi phạm quy định pháp luật trong lĩnh vực bảo hiểm tiền gửi hoặc những vi phạm quy định về an toàn hoạt động ngân hàng, rủi ro gây mất an toàn trong hệ thống ngân hàng. Đồng thời, tích cực đẩy mạnh, đa dạng hóa các kênh tuyên truyền chính sách bảo hiểm tiền gửi, trong đó có Luật Bảo hiểm tiền gửi nhằm giữ vững niềm tin của người gửi tiền đối với các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, ngăn ngừa các nguy cơ về rút tiền hàng loạt khi xảy ra tin đồn thất thiệt đe dọa an toàn hệ thống ngân hàng. Khi TCTD gặp sự cố mất thanh khoản, DIV cũng thực hiện chi trả đầy đủ, kịp thời cho người gửi tiền để niềm tin ấy luôn được củng cố vững chắc.
Sự ra đời của Luật Bảo hiểm tiền gửi đã cho thấy sự phát triển tích cực của chính sách bảo hiểm tiền gửi tại Việt Nam, khắc phục được những tồn tại, hạn chế của hệ thống pháp luật trước đó về bảo hiểm tiền gửi, bổ sung những quy định có hiệu lực thực thi cao hơn và tiếp thu nhiều tiến bộ từ thông lệ quốc tế về bảo hiểm tiền gửi. Tuy nhiên, qua 10 năm triển khai, Luật Bảo hiểm tiền gửi cũng đã bộc lộ một số bất cập, hạn chế, do Luật chưa quy định, quy định chưa rõ hoặc có quy định nhưng không thống nhất với luật khác như: Về thời điểm phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm, miễn phí bảo hiểm tiền gửi; về tiền gửi không được bảo hiểm; về trục lợi bảo hiểm tiền gửi...
Quá trình thực thi Luật Bảo hiểm tiền gửi còn những vướng mắc
Thứ nhất, một số quy định tại Luật Bảo hiểm tiền gửi chưa cụ thể, dẫn tới quá trình thực hiện còn gặp khó khăn, vướng mắc.
Chẳng hạn, Luật Bảo hiểm tiền gửi quy định: tiền gửi được bảo hiểm gồm tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức tiền gửi khác theo quy định của Luật Các TCTD. Tại các văn bản hướng dẫn thi hành Luật chưa có quy định rõ về “các hình thức tiền gửi khác”, do vậy còn có các quan điểm khác nhau trong việc xác định tiền gửi được bảo hiểm đối với hình thức như: tiền gửi ký quỹ, thẻ trả trước...
Thứ hai, một số quy định tại Luật Bảo hiểm tiền gửi cần có sự đánh giá lại để phù hợp với tình hình và hệ thống pháp luật thời điểm hiện tại.
Cụ thể, việc áp dụng mức phí bảo hiểm tiền gửi phân biệt giữa các TCTD còn khó khăn. Hệ thống các TCTD Việt Nam vẫn đang trong quá trình cơ cấu lại, gắn với trọng tâm là xử lý căn bản, triệt để nợ xấu và các TCTD yếu kém. Việc áp dụng phí bảo hiểm tiền gửi phân biệt sẽ làm tăng gánh nặng tài chính đối với các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, đặc biệt là những tổ chức tín dụng có độ rủi ro cao, gia tăng khó khăn cho quá trình tái cơ cấu và xử lý nợ xấu của các tổ chức này.
Điều 31 Luật Bảo hiểm tiền gửi quy định tổ chức bảo hiểm tiền gửi được sử dụng nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi để mua trái phiếu Chính phủ, tín phiếu NHNN và gửi tiền tại NHNN nhưng chưa quy định DIV được bán trái phiếu Chính phủ, tín phiếu NHNN khi cần thiết.
Bên cạnh đó, mặc dù các kênh đầu tư hiện tại là kênh đầu tư an toàn nhưng có thể nghiên cứu đa dạng hóa thêm hình thức đầu tư mới để nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi của DIV mà vẫn đảm bảo an toàn, qua đó nâng cao hơn nữa năng lực của DIV trong việc chi trả tiền gửi được bảo hiểm cho người gửi tiền.
Thứ ba, một số quy định tại Luật Bảo hiểm tiền gửi cần phải được sửa đổi, bổ sung để đảm bảo thống nhất với Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các TCTD, đồng thời tạo cơ sở để DIV thực hiện được các nhiệm vụ mới được giao.
Cụ thể, ngày 20/11/2017, Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các TCTD (Luật Các TCTD sửa đổi 2017), trong đó, DIV được giao thêm một số nhiệm vụ mới như: Phối hợp với Ban Kiểm soát đặc biệt đánh giá tính khả thi của phương án phục hồi Công ty tài chính, QTDND, tổ chức tài chính vi mô được kiểm soát đặc biệt; phối hợp với Ban Kiểm soát đặc biệt xây dựng phương án phá sản TCTD được kiểm soát đặc biệt, cho vay đặc biệt đối với TCTD được kiểm soát đặc biệt và mua trái phiếu dài hạn của TCTD hỗ trợ.
Như vậy, các quy định pháp luật về tham gia cơ cấu lại TCTD dù đã bước đầu tạo điều kiện cho DIV phát huy vai trò trong tái cơ cấu hệ thống các TCTD, nhưng các quy định về quyền hạn của tổ chức bảo hiểm tiền gửi tại Luật Bảo hiểm tiền gửi chưa thống nhất, đồng bộ với hệ thống văn bản pháp lý hiện hành về tái cơ cấu, cản trở sự tham gia có hiệu quả của DIV đối với tiến trình này.
Chẳng hạn như, về quyền và nghĩa vụ của tổ chức bảo hiểm tiền gửi, tại khoản 2 Điều 148 và khoản 1 Điều 152a Luật Các TCTD sửa đổi 2017 quy định, tổ chức bảo hiểm tiền gửi tham gia vào quá trình xây dựng các phương án tái cơ cấu QTDND. Tuy nhiên, quy định quyền và nghĩa vụ tổ chức bảo hiểm tiền gửi tại Luật Bảo hiểm tiền gửi chưa đảm bảo để tổ chức bảo hiểm tiền gửi có thể tham gia sâu hơn vào quá trình tái cơ cấu TCTD (ví dụ như tham gia hỗ trợ kiểm tra, giám sát đối với QTDND, tham gia quá trình xây dựng các phương án tái cơ cấu QTDND, cho vay đặc biệt đối với QTDND bị kiểm soát đặc biệt…).
Về cho vay đặc biệt đối với TCTD bị kiểm soát đặc biệt, Luật Các TCTD sửa đổi 2017 quy định DIV cho vay đặc biệt đối với công ty tài chính, QTDND, tổ chức tài chính vi mô; DIV mua trái phiếu dài hạn của TCTD hỗ trợ theo quyết định của NHNN. Tuy nhiên, Luật Bảo hiểm tiền gửi chưa quy định các nội dung này.
Luật Bảo hiểm tiền gửi cũng chưa có quy định NHNN quyết định việc DIV mua trái phiếu dài hạn của TCTD hỗ trợ. Trong khi đó, nội dung này được quy định tại Luật Các TCTD sửa đổi 2017.
Sửa đổi để phù hợp thực tiễn và đồng bộ với hệ thống pháp luật hiện hành
Những năm gần đây, Thủ tướng Chính phủ đã có chỉ đạo quan trọng liên quan đến việc sửa đổi, bổ sung Luật Bảo hiểm tiền gửi. Theo đó, tại Chỉ thị số 06/CT-TTg ngày 12/3/2019 về tăng cường giải pháp nhằm đảm bảo an toàn hoạt động, củng cố vững chắc hệ thống QTDND, Thủ tướng chỉ đạo NHNN: “Tăng cường vai trò và giao nhiệm vụ Ngân hàng Hợp tác xã Việt Nam và DIV trong việc phối hợp tham gia, hỗ trợ chức năng kiểm tra, giám sát của NHNN đối với các QTDND; thực hiện tốt vai trò trách nhiệm đầu mối liên kết hệ thống của Ngân hàng Hợp tác xã trong điều hòa vốn, hỗ trợ cho vay đối với QTDND gặp khó khăn về tài chính, thanh khoản; tích cực tham gia xử lý các QTDND yếu kém hoặc có dấu hiệu mất an toàn trong hoạt động; nghiên cứu đề xuất việc sửa đổi Luật Bảo hiểm tiền gửi để sử dụng nguồn tiền kết dư phí bảo hiểm tiền gửi để xử lý các TCTD yếu kém”.
Tại Hội nghị chuyên đề QTDND do NHNN tổ chức vừa qua, Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú cũng giao nhiệm vụ cho DIV tiếp tục rà soát, đề xuất cơ sở, nội dung sửa đổi, bổ sung hoàn thiện Luật Bảo hiểm tiền gửi và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan. Đồng thời, trong thời gian chờ sửa Luật này, chủ động phối hợp với Cơ quan TTGSNH đề xuất, nghiên cứu phương án, giải pháp để tham gia mạnh mẽ hơn trong việc tái cơ cấu QTDND bằng nguồn lực của bảo hiểm tiền gửi.
Để Luật Bảo hiểm tiền gửi có hiệu quả thực thi, thống nhất với các quy định pháp luật khác có liên quan, tạo cơ sở pháp lý cho DIV phát huy được vai trò, vị thế của tổ chức bảo hiểm tiền gửi, đồng thời đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, Luật Bảo hiểm tiền gửi cần được sửa đổi trên cơ sở tham khảo, học tập kinh nghiệm của các nước, hướng dẫn phát triển hệ thống bảo hiểm tiền gửi hiệu quả của các tổ chức quốc tế nhằm từng bước hướng tới chuẩn mực chung của quốc tế về bảo hiểm tiền gửi.
Bên cạnh đó, Luật Bảo hiểm tiền gửi sửa đổi cần được xây dựng theo hướng khắc phục những bất cập, hạn chế qua quá trình thực thi Luật Bảo hiểm tiền gửi từ năm 2013 đến nay. Trong đó, cần bám sát, cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về bảo hiểm tiền gửi và về vấn đề cơ cấu lại TCTD yếu kém. Đặc biệt là định hướng sử dụng công cụ bảo hiểm tiền gửi một cách hiệu quả vào quá trình cơ cấu lại TCTD để xử lý nợ xấu. Bởi lẽ, quá trình tái cơ cấu hệ thống các TCTD đặt ra nhiều thách thức, đòi hỏi chính sách bảo hiểm tiền gửi cần được hoàn thiện để phát huy hơn nữa vai trò của tổ chức bảo hiểm tiền gửi.
Chẳng hạn, liên quan đến việc tham gia xây dựng phương án phục hồi của QTDND, tổ chức tài chính vi mô theo quy định tại Luật Các TCTD sửa đổi (2017), để DIV thực hiện tốt nhiệm vụ này, Luật Bảo hiểm tiền gửi cần quy định rõ hơn về quyền và nghĩa vụ của tổ chức bảo hiểm tiền gửi, bổ sung quy định theo hướng DIV tham gia sâu hơn vào quá trình tái cơ cấu TCTD, xử lý TCTD yếu kém như: Xử lý, can thiệp sớm, đặc biệt đối với các QTDND được kiểm soát đặc biệt thông qua các hình thức như: Tiếp quản trực tiếp, tham gia quản trị hoặc góp vốn để chi phối hoạt động của QTDND...
Luật Bảo hiểm tiền gửi cũng cần quy định rõ vai trò giám sát, kiểm tra của DIVđể cơ quan này có thể đánh giá rủi ro và cảnh báo sớm đối với TCTD có vấn đề thông qua việc trao quyền cho DIV được tiếp cận sâu và đầy đủ với các thông tin về đánh giá sự lành mạnh của TCTD. Bổ sung chức năng, nhiệm vụ của DIV như: Quy định DIV phối hợp với NHNN kiểm tra, giám sát QTDND trong việc chấp hành các quy định của pháp luật về tiền tệ và ngân hàng theo yêu cầu của NHNN...Về cho vay đặc biệt đối với TCTD được kiểm soát đặc biệt, bổ sung quy định DIV cho vay đặc biệt đối với TCTD được kiểm soát đặc biệt để thống nhất với quy định tại Luật Các TCTD sửa đổi 2017 và cụ thể hóa một số nội dung để đảm bảo cơ sở pháp lý cho DIV trong quá trình cho vay đặc biệt, ví dụ: Nguồn vốn cho vay đặc biệt để hỗ trợ thanh khoản đối với TCTD, cơ chế xử lý rủi ro...
Về mua trái phiếu dài hạn của TCTD hỗ trợ, bổ sung quy định DIV mua trái phiếu dài hạn của TCTD hỗ trợ để thống nhất với quy định tại Luật Các TCTD sửa đổi 2017 và cụ thể hóa một số nội dung để đảm bảo cơ sở pháp lý cho BHTGVN trong quá trình mua trái phiếu dài hạn của TCTD hỗ trợ, ví dụ: nguồn vốn mua trái phiếu dài hạn, cơ chế xử lý rủi ro...
Bên cạnh đó, sửa đổi Luật Bảo hiểm tiền gửi cần bổ sung quy định về hoạt động đầu tư của DIV theo hướng đa dạng hóa các hình thức đầu tư nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi của DIV và thống nhất với quy định tại Luật Các TCTD sửa đổi 2017, ví dụ, bổ sung quy định về bán trái phiếu Chính phủ, tín phiếu NHNN...
Ngoài ra, Luật Bảo hiểm tiền gửi sửa đổi cần theo hướng bổ sung chức năng, nhiệm vụ mới để DIV có vai trò lớn hơn trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền và kiểm soát rủi ro TCTD; tăng cường năng lực tài chính cho DIV ; sử dụng hiệu quả nguồn lực từ bảo hiểm tiền gửi vào thực hiện nhiệm vụ cơ cấu lại TCTD yếu kém, xử lý nợ xấu; nâng hạn mức BHTG phù hợp với yêu cầu thực tế nhằm bảo vệ tốt hơn người gửi tiền, nâng cao niềm tin của người gửi tiền vào hệ thống TCTD.