Chủ nhật, 24/11/2024
   

Kéo dài thời gian áp dụng Nghị quyết 42 về xử lý nợ xấu để tránh khoảng trống pháp lý

Thảo luận tại hội trường ngày 01/6/2022, nhiều đại biểu Quốc hội bảy tỏ đồng tình cao với việc kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ quy định của Nghị quyết 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tác tổ chức tín dụng (Nghị quyết 42).

Thảo luận tại hội trường ngày 01/6/2022, nhiều đại biểu Quốc hội bảy tỏ đồng tình cao với việc kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ quy định của Nghị quyết 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tác tổ chức tín dụng (Nghị quyết 42).

Đại biểu Trần Hoàng Ngân (TP. Hồ Chí Minh) cho rằng, đề nghị Quốc hội tiếp tục xem xét gia hạn, kéo dài thời gian thực hiện Nghị quyết 42 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng. Qua gần 5 năm thực hiện Nghị quyết 42 của Quốc hội, hệ thống ngân hàng đã xử lý được 380.000 tỷ đồng, trong đó có gần 40% là do khách hàng vay vốn chủ động trả nợ. Điều đó khẳng định Nghị quyết 42 rất cần thiết và nên tiếp tục gia hạn thêm một thời gian để chúng ta đảm bảo được an toàn hệ thống ngân hàng.

Còn đại biểu Phạm Hùng Thắng (Hà Nam) cho rằng, về việc tổng kết thực hiện Nghị quyết số 42 và việc kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ quy định Nghị quyết số 42, tôi nhất trí với Báo cáo tổng kết của Chính phủ và báo cáo đánh giá của Ủy ban Kinh tế đã trình trước Quốc hội. Theo báo cáo tổng kết của Chính phủ cho thấy việc thực hiện Nghị quyết số 42 của Quốc hội đã mang lại nhiều chuyển biến tích cực trong công tác xử lý nợ xấu, góp phần không nhỏ kết quả công tác cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020. Thể hiện định hướng chính sách đúng đắn của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, tạo niềm tin đối với hệ thống các tổ chức tín dụng nói riêng và toàn bộ xã hội nói chung đối với công tác xử lý nợ xấu trong nền kinh tế.

Đại biểu Thắng cho biết thêm, tính đến ngày 31/12/2021, số nợ xấu chưa được xử lý theo Nghị quyết 42 vẫn còn 412,7 nghìn tỷ đồng. Dự báo trong thời gian tới do tác động tiêu cực của dịch bệnh COVID-19 và bất ổn của tình hình chính trị thế giới đối với nền kinh tế Việt Nam thì số nợ xấu được xác định theo Nghị quyết 42 có thể tiếp tục gia tăng, đặc biệt đối với các khoản vay trung và dài hạn. Do vậy, tôi nhất trí với việc đề xuất kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ quy định Nghị quyết số 42 của Quốc hội đến hết ngày 31/12/2023 và đưa nội dung này vào nghị quyết chung của kỳ họp thứ 3.

Đồng tình với các quan điểm trên đại biểu Hà Sỹ Đồng (Quảng Trị) cho biết, kết quả xử lý nợ xấu thời gian qua chưa thực sự vững chắc, thực trạng xử lý nợ xấu cho thấy vẫn tiềm ẩn rủi ro, nợ xấu có khả năng tiếp tục tăng mạnh trong thời gian tới. Vì vậy, đại biểu Hà Sỹ Đồng đề nghị cần thiết kéo dài thời hạn áp dụng Nghị quyết 42 đến cuối năm 2023 để tránh bị khoảng trống pháp lý trong thời gian đợi gia cố khung khổ pháp luật về xử lý nợ xấu.

Góp ý về tổng kết việc thực hiện Nghị quyết 42, đại biểu Cầm Thị Mẫn (Thanh Hóa) đồng tình và đánh giá cao những nỗ lực, sự chỉ đạo quyết liệt, kịp thời của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, vai trò đầu mối của Ngân hàng Nhà nước và sự phối kết hợp vào cuộc của các Bộ, ngành, cơ quan Trung ương, các địa phương trong tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết 42.

Theo đại biểu Mẫn, Nghị quyết 42 đã tạo hành lang pháp lý cần thiết cho công tác xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng, VAMC, mang lại những chuyển biến tích cực, thể hiện định hướng, chính sách đúng đắn của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, qua đó củng cố niềm tin của xã hội đối với công tác xử lý nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng.

Ngành Ngân hàng, các Bộ, ngành, cơ quan liên quan đã vào cuộc để thúc đẩy mạnh mẽ hơn công tác xử lý nợ xấu, tạo sự thay đổi đáng kể về nhận thức, trách nhiệm của các bên liên quan từ khi Nghị quyết 42 có hiệu lực. Qua đó, giúp cho ý thức trả nợ của khách hàng cũng được nâng cao hơn.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, đại biểu Cầm Thị Mẫn cũng chỉ rõ, trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết 42 vẫn còn những khó khăn, vướng mắc. Do vậy, đại biểu đề nghị Chính phủ cần tiếp tục đánh giá tác động, phân tích rõ nguyên nhân khách quan, chủ quan của những tồn tại, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết, theo đó đề xuất những giải pháp phù hợp với tình hình thực tiễn của đất nước hiện nay.

Cùng quan điểm trên, đại biểu Lê Đào An Xuân (Phú Yên) thống nhất với các đánh giá về các kết quả đạt được và đề xuất gia hạn Nghị quyết 42. Tuy nhiên theo đại biểu, việc thực hiện Nghị quyết 42 có một số vướng mắc phát sinh từ chính các quy định của Nghị quyết. “Do vậy, việc gia hạn lại toàn bộ nội dung Nghị quyết sẽ không giải quyết được toàn bộ mục tiêu đặt ra ban đầu của Nghị quyết mà chỉ mang tính xử lý tức thời trong thời gian Chính phủ chưa kịp tham mưu để trình Quốc hội các quy định phù hợp với thực tiễn”, đại biểu Lê Đào An Xuân nói.

Để đảm bảo sửa đổi kịp thời các nội dung không còn phù hợp, đảm bảo sự kế thừa liên tục, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn phát sinh, đại biểu Lê Đào An Xuân kiến nghị cần xem xét, bổ sung đối tượng điều chỉnh của Nghị quyết, trong đó có việc xử lý các khoản nợ xấu mới phát sinh từ sau thời hiệu của Nghị quyết số 42. Đề nghị bổ sung các quy định về xử lý đối với các khoản nợ xấu không còn tài sản đảm bảo.

Dẫn thực tế trên địa bàn tỉnh Phú Yên, đại biểu Lê Đào An Xuân cho biết, hiện nay có gần 40% nợ xấu là nợ xấu không còn tài sản đảm bảo để xử lý (do doanh nghiệp phá sản hoặc giải thể). “Những khoản nợ này đã treo trong thời gian dài, có khoản đã kéo dài trên 20 năm nên rất cần có giải pháp mang tính đặc thù riêng để xử lý các loại nợ xấu như vậy”, nữ đại biểu nói.

Nhìn dài hạn hơn đến sau năm 2023, đại biểu Cầm Thị Mẫn cho rằng để tránh tạo ra khoảng trống pháp lý khi Nghị quyết 42 hết hiệu lực thi hành, Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước trong thời hạn kéo dài thực hiện Nghị quyết cần nghiên cứu, phân tích, đánh giá các vấn đề thực tiễn đặt ra, đề xuất luật hóa quy định về xử lý nợ xấu nhằm tạo hành lang pháp lý ổn định cho công tác xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng, đáp ứng yêu cầu khơi thông nguồn vốn, hỗ trợ doanh nghiệp và người dân trong phát triển sản xuất kinh doanh, góp phần phát triển kinh tế - xã hội đất nước.

Theo SBV

Tính lãi tiền gửi
VNĐ
%/year
month
Tính lãi tiền gửi

Tính toán khoản vay
VNĐ
%/year
month
Tính toán khoản vay