
Hình ảnh minh họa (Nguồn: Internet)
Công văn Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam nêu rõ, Căn cứ Khoản 3 Điều 30 Nghị định 126/2020/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý Thuế và Điều 81 Thông tư 80/2021/TT-BTC của Bộ Tài chính, ngày 31/12/2024 Tổng cục Thuế đã có Công văn số 6369/TCT-DNL thông báo đến Hội sở chính của các ngân hàng thương mại (NHTM), tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán danh sách các nhà cung cấp nước ngoài chưa thực hiện đăng ký, kê khai, nộp thuế tại Việt Nam và đề nghị Hội sở chính của Ngân hàng, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán thực hiện thông báo danh sách các nhà cung cấp nước ngoài cho các chi nhánh của ngân hàng để các chi nhánh thực hiện kê khai, khấu trừ, nộp thay nghĩa vụ thuế khi thực hiện thanh toán cho các giao dịch với nhà cung cấp nước ngoài theo quy định.
Hiện nay, Hiệp hội Ngân hàng nhận được phản ánh của một số hội viên về khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai Công văn 6369/TCT-DNL. Qua nghiên cứu thực tiễn triển khai tại các ngân hàng, Hiệp hội Ngân hàng thấy rằng đây là vướng mắc chung của các NHTM. Vì vậy, Hiệp hội Ngân hàng xin báo cáo và có một số ý kiến đề xuất như sau:
1. Vướng mắc của các NHTM trong thực tiễn triển khai
a) Về xác định nhà cung cấp nước ngoài (NCCNN):
Tại Công văn số 6369/TCT-DNL, Tổng cục Thuế chỉ cung cấp tên và địa chỉ website của NCCNN cho các NHTM. Tuy nhiên, các NHTM chỉ thực hiện lệnh chuyển tiền căn cứ trên yêu cầu của khách hàng. Lệnh chuyển tiền không yêu cầu thông tin website của người thụ hưởng. Do đó, thông tin website mà Tổng cục Thuế cung cấp hoàn toàn không thể sử dụng được để xác định người thụ hưởng. Nếu chỉ căn cứ trên thông tin là tên người thụ hưởng để khấu trừ thuế thì sẽ phát sinh rủi ro khấu trừ thuế không đúng đối tượng do có thể có nhiều NCCNN trùng tên công ty.
b) Về xác định giao dịch:
- Theo quy định tại điểm b Khoản 3 Điều 30 Nghị định 126/2020/NĐ-CP thì các giao dịch mua dịch vụ/hàng hóa của NCCNN là tổ chức Việt Nam nhưng ủy quyền cho cá nhân thanh toán từ thẻ của cá nhân nên NH không thể xác định chính xác được giao dịch mua hàng hóa/dịch vụ nào là giao dịch của cá nhân. NHTM chỉ có thể xác định được người chuyển tiền/thanh toán là cá nhân hoặc tổ chức, không thể xác định được người mua thực sự là ai.
- Theo quy định tại điểm Khoản 3 Điều 30 Nghị định 126, trường hợp NHTM không thể khấu trừ, nộp thay thì NHTM phải có trách nhiệm theo dõi số tiền chuyển cho các NCCNN và định kỳ hàng tháng gửi về Tổng cục Thuế. Tiêu chí xác định “không thể khấu trừ, nộp thay” phát sinh trong các trường hợp nào và Ngân hàng phải theo dõi, báo cáo số tiền đó đến bao lâu? Nội dung này chưa rõ để Ngân hàng thực hiện.
c) Về tính thuế:
- NHTM không tham gia vào giao dịch mua bán, nên không nắm được bản chất giao dịch, không có đầy đủ thông tin để xác định được đúng ngành kinh doanh, không xác định được loại hàng hóa/dịch vụ mua bán để xác định mức thuế suất làm cơ sở khấu trừ thuế theo quy định. NHTM chỉ là trung gian thanh toán, tuy nhiên chưa có quy định nào của pháp luật về việc miễn trừ hoặc giới hạn trách nhiệm cho NH nên phát sinh rủi ro bị bị đòi bồi thường hoặc khiếu kiện từ NCCNN cũng như rủi ro bị xử phạt vi phạm hành chính.
- Theo quy định về tỷ giá nộp thuế thì áp dụng theo tỷ giá mua vào của NHTM nơi người nộp thuế mở tài khoản. Thực tế, hầu hết các NCCNN không có tài khoản tại NH Việt Nam. Vậy trường hợp này, NHTM xác định theo tỷ giá nào cũng cần được làm rõ.
2. Đề xuất, kiến nghị
Để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc nêu trên của các NHTM, Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam kiến nghị Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế một số nội dung sau:
a) Trước mắt, đề nghị Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế sớm có văn bản hướng dẫn/tháo gỡ các nội dung vướng mắc được nêu ở mục 1 trên, cụ thể:
- Về việc xác định NCCNN:
+ Đối với thông tin website, đề nghị Tổng cục Thuế hướng dẫn rõ các NHTM xử lý trong trường hợp lệnh chuyển tiền/nội dung thanh toán không có website.
+ Đối với trách nhiệm khấu trừ, để tránh những vướng mắc, khiếu kiện của khách hàng là NCCNN đối với NHTM, đề nghị Tổng cục Thuế cung cấp tối thiểu các thông tin sau để các NHTM xác định đúng đối tượng phải khấu trừ: (1) Tên người thụ hưởng, (2) Số tài khoản người thụ hưởng, (3) NH của người thụ hưởng.
- Về tính thuế:
+ Đề nghị bổ sung quy định cá nhân mua hàng hóa, dịch vụ của NCCNN phải xác định cụ thể tỷ lệ tính thuế và cung cấp cho NHTM theo yêu cầu của NHTM để thực hiện khấu trừ, đồng thời chịu trách nhiệm nếu xác định sai tỷ lệ này. Đồng thời, đề nghị cơ quan thuế thông báo bằng văn bản cho các NCCNN nắm được thông tin về quy định khấu trừ, tránh phát sinh các khiếu nại đối với các NHTM tại Việt Nam.
+ Đề nghị Tổng cục Thuế xem xét lại yêu cầu khấu trừ thuế đối với dịch vụ trung gian nhận tiền phòng của Agoda và Booking.com, đảm bảo phù hợp với mô hình hoạt động của 2 NCCNN này và quy định tại Nghị định 126/2020/NĐ-CP (NHTM chỉ khấu trừ khi người mua là “cá nhân ở Việt Nam”).
b) Đề nghị Tổng cục Thuế, Bộ Tài chính tham mưu cho Cấp có thẩm quyền xem xét bãi bỏ quy định NHTM thực hiện khấu trừ tại Luật Quản lý thuế 2019: Tại khoản 5 Điều 6 Luật số 56/2024/QH15 sửa đổi Điều 42 của Luật Quản lý thuế 2019 như sau: “4. Đối với hoạt động kinh doanh thương mại điện tử, kinh doanh dựa trên nền tảng số và các dịch vụ khác được thực hiện bởi nhà cung cấp ở nước ngoài thì nhà cung cấp ở nước ngoài có nghĩa vụ trực tiếp hoặc ủy quyền thực hiện đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế tại Việt Nam theo quy định của Bộ trưởng Bộ Tài chính.” Quy định này có hiệu lực từ 01/01/2025. Như vậy, từ 01/01/2025, NCCNN phải thực hiện đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế tại Việt Nam.
Hiệp hội Ngân hàng rất mong nhận được sự quan tâm, xét xét tháo gỡ của Tổng cục Thuế, Bộ Tài chính tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các NHTM.
VNBA