Luật Bảo hiểm tiền gửi được ban hành và có hiệu lực vào ngày 01/01/2013, tới nay, sau 10 năm đi vào cuộc sống, việc nhìn nhận, bổ sung, cập nhật Luật và các quy định dưới luật là điều cần thiết, nhằm nâng cao hiệu quả và đóng góp của hoạt động bảo hiểm tiền gửi, thúc đẩy bảo vệ tốt hơn quyền lợi người gửi tiền.
Rút ngắn thời gian chi trả bảo hiểm tiền gửi, kịp thời bảo vệ người gửi tiền
Thực hiện quy trình chi trả bảo hiểm tiền gửi hiệu quả là điều kiện tiên quyết trong nội dung duy trì niềm tin công chúng và góp phần vào sự ổn định của hệ thống các tổ chức tín dụng, đặc biệt trong tình huống có tổ chức tín dụng phải đóng cửa. Điều 23 Luật Bảo hiểm tiền gửi quy định, trong thời hạn 60 ngày kể từ thời điểm phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm, tổ chức bảo hiểm tiền gửi có trách nhiệm trả tiền bảo hiểm cho người được bảo hiểm tiền gửi.
Kinh nghiệm quốc tế về chi trả bảo hiểm tiền gửi cho thấy, các quốc gia có hệ thống bảo hiểm tiền gửi phát triển có quy định pháp luật về thời gian chi trả ngắn hơn rất nhiều so với thời hạn 60 ngày. Các tổ chức bảo hiểm tiền gửi thường đặt ra khoảng thời gian mục tiêu thực hiện chi trả với nỗ lực chi trả nhanh nhất có thể. Theo đó, Tổng Công ty Bảo hiểm tiền gửi Mỹ chi trả bảo hiểm tiền gửi sau 2 ngày tính từ thời điểm đóng cửa ngân hàng, Đài Loan sau 3 ngày, Canada chi trả một phần sau 5 ngày và toàn bộ sau 14 ngày, Anh đặt mục tiêu chi trả sau 7 ngày. Hiệp hội Bảo hiểm tiền gửi quốc tế (IADI) khuyến nghị nên quy định thời hạn mục tiêu để chi trả bảo hiểm tiền gửi là sau 7 ngày tính từ khi ngân hàng nhận tiền gửi tuyên bố chấm dứt hoạt động (đóng cửa).
Với thực tiễn quốc tế và điều kiện có liên quan tới hoạt động chi trả bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam, quy định về thời hạn chi trả 60 ngày cần được rút ngắn nhằm hạn chế ảnh hưởng bất lợi tới tâm lý của người gửi tiền, giảm hiệu ứng đám đông do đóng cửa ngân hàng có thể phát sinh.
Yếu tố để có thể rút gắn thời hạn chi trả bao gồm: khả năng tiếp cận thông tin về tiền gửi được bảo hiểm, nguồn nhân lực, phương thức chi trả, hạ tầng công nghệ thông tin. Trên thực tế, các yếu tố đó đối với Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (DIV) hiện tại đã được cải thiện đáng kể. Từ tháng 6/2017 đến nay, tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi định kỳ cung cấp tới DIV thông tin về tiền gửi được bảo hiểm. Nguồn nhân lực hiện tại của DIV có thể đáp ứng nhu cầu của hoạt động chi trả. Hơn nữa, Luật Bảo hiểm tiền gửi của Việt Nam cho phép tổ chức bảo hiểm tiền gửi trực tiếp trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền hoặc ủy quyền cho tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi khác thực hiện. Điều này cho phép DIV có thể sử dụng phương thức ủy quyền chi trả bảo hiểm tiền gửi trong tình huống cần rút ngắn thời gian chi trả. Bên cạnh đó, dự án hệ thống thông tin và hiện đại hóa ngân hàng (FSMIMS) do Ngân hàng Thế giới tài trợ Việt Nam đã đưa vào sử dụng, góp phần cải thiện điều kiện tiếp cận thông tin về tiền gửi ngân hàng và hỗ trợ xử lý chi trả ngân hàng được thuận lợi trong điều kiện cần rút ngắn thời gian.
Kiểm soát rủi ro đạo đức trong hoạt động bảo hiểm tiền gửi
Bên cạnh tính ưu việt, hoạt động bảo hiểm tiền gửi có thể gây phát sinh một số rủi ro. Nhận thức toàn diện, đầy đủ và có giải pháp phòng ngừa, kiểm soát chặt chẽ rủi ro sẽ nâng cao hiệu quả của hoạt động bảo hiểm tiền gửi. Điều 10 Luật Bảo hiểm tiền gửi quy định các hành vi bị cấm trong hoạt động bảo hiểm tiền gửi, nhưng chưa đề cập tới hành vi gây rủi ro đạo đức bị cấm.
Rủi ro đạo đức trong hoạt động của các TCTD có liên quan tới sự hiện diện của công cụ bảo hiểm tiền gửi tương đối đa dạng, cần được xác định và có giải pháp kiểm soát. Người gửi tiền có tâm lý ít quan tâm tới hoạt động của TCTD họ gửi tiền bởi họ cho rằng, TCTD đó đã tham gia bảo hiểm tiền gửi và rủi ro đối với tiền gửi đã được loại trừ. Họ có tâm lý an tâm hơn và tìm kiếm cơ hội gửi tiền tại TCTD chào lãi suất cao hơn. Ứng xử đó vô hình trung thúc đẩy hoạt động của TCTD chấp nhận rủi ro cao hơn. Hơn nữa, về phía TCTD huy động tiền gửi, trong tình huống khó khăn có thể dẫn tới đóng cửa, TCTD có thể có một số động thái trục lợi bảo hiểm tiền gửi.
Thực tế trong quá trình tham gia kiểm soát đặc biệt tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi (đặc biệt là ở một số QTDND), DIV phát hiện một số hành vi nhằm trục lợi bảo hiểm tiền gửi như: Khách hàng và cán bộ tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi câu kết thực hiện chia, tách một khoản tiền gửi trên hạn mức thành nhiều khoản tiền gửi của nhiều người để được nhận tiền bảo hiểm nhiều hơn; Huy động vốn để ngoài sổ sách sau đó hợp lý hóa; Huy động vốn sau thời điểm NHNN có văn bản chấm dứt hoặc dừng huy động vốn; Huy động vốn sau thời điểm phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm...Trong khi đó, Luật Bảo hiểm tiền gửi chưa có quy định cụ thể các hành vi nêu trên là hành vi bị cấm. Do vậy, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, DIV không có cơ sở để xử lý những hành vi nêu trên.
Theo Hướng dẫn của Hiệp hội Bảo hiểm tiền gửi quốc tế (IADI), hành vi trục lợi BHTG là hành động gây ra hoặc có thể gây ra việc chi trả bảo hiểm tiền gửi không đúng quy định cho người không được bảo hiểm hoặc vượt quá hạn mức trả tiền bảo hiểm theo quy định. Các hành vi trục lợi bảo hiểm được thể hiện dưới các hình thức sau đây: Thay thế chủ sở hữu tiền gửi (thay thế người gửi tiền không được bảo hiểm với người được bảo hiểm); Chia tách tiền gửi vượt hạn mức trả tiền bảo hiểm theo quy định và chuyển các phần tiền gửi không được bảo hiểm sang tài khoản được bảo hiểm của người khác; Ghi nhận người gửi tiền hoặc khoản tiền gửi giả vào danh sách tiền gửi được bảo hiểm hoặc không đưa khoản nợ phải trả của người gửi tiền khi thực hiện tính toán bù trừ; Ghi nhận các khoản tiền gửi giả vào sổ sách của ngân hàng nhằm mục đích chiếm dụng tiền của quỹ bảo hiểm tiền gửi. Ngoài ra, Luật Bảo hiểm tiền gửi của một số nước (Philippine, Đài Loan…) cũng có quy định về hành vi trục lợi và gian lận bảo hiểm tiền gửi.
Để xây dựng mô hình tổ chức bảo hiểm tiền gửi hiệu quả, thiết lập kỷ cương thị trường, giảm thiểu tối đa các tác động tiêu cực từ rủi ro đạo đức, cần xem xét bổ sung định danh về trục lợi bảo hiểm tiền gửi, điều khoản miễn trừ, quyền từ chối trả tiền bảo hiểm trong trường hợp có biểu hiện trục lợi bảo hiểm tiền gửi. Bổ sung hành vi cố ý chia, tách, chuyển quyền sở hữu tiền gửi được bảo hiểm nhằm mục đích được hưởng nhiều tiền bảo hiểm hơn là một trong những hành vi bị cấm.
Tiến tới áp dụng phí bảo hiểm tiền gửi có phân biệt theo mức độ rủi ro
Trong hoạt động bảo hiểm tiền gửi, có hai phương pháp tính phí bảo hiểm tiền gửi, đó là phí đồng hạng và phí phân biệt theo mức độ rủi ro của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. IADI khuyến nghị phí bảo hiểm tiền gửi đồng hạng áp dụng trong thời gian mới triển khai hoạt động bảo hiểm tiền gửi. Với tiến trình phát triển hoạt động bảo hiểm tiền gửi, áp dụng phí bảo hiểm tiền gửi có phân biệt rủi ro cần được áp dụng.
Luật Bảo hiểm tiền gửi quy định: “Thủ tướng Chính phủ quy định khung phí bảo hiểm tiền gửi theo đề nghị của NHNN; căn cứ vào khung phí bảo hiểm tiền gửi, NHNN quy định mức phí bảo hiểm tiền gửi cụ thể đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi trên cơ sở kết quả đánh giá và phân loại tổ chức này”.
Từ khi DIV thành lập đến nay đã gần 23 năm, phí bảo hiểm tiền gửi được tính đồng hạng 0,15%/năm/trên số dư tiền gửi bình quân của các loại tiền gửi được bảo hiểm tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Phương pháp tính phí này phù hợp trong giai đoạn đầu mới thành lập tổ chức bảo hiểm tiền gửivà đặc thù của nền kinh tế chuyển đổi từ tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, việc áp dụng mức phí đồng hạng trong thời gian dài sẽ không tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh giữa các TCTD trong hệ thống, không khuyến khích tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi nâng cao hiệu quả hoạt động để được áp dụng mức phí thấp hơn, góp phần làm gia tăng nguy cơ phát sinh rủi ro đạo đức. Vì vậy, để phù hợp với tình hình thực tế và thông lệ quốc tế, hướng dẫn thu phí theo đánh giá và phân loại các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi là cần thiết.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 20 Luật Bảo hiểm tiền gửi, mức phí bảo hiểm tiền gửi khác nhau tùy thuộc vào kết quả xếp hạng TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài do NHNN thực hiện việc xếp hạng. Trên thực tế, việc đánh giá xếp hạng các TCTD của NHNN chỉ nhằm mục đích phục vụ công tác quản lý và không được công bố rộng rãi trước công chúng. Do đó, cần thiết phải sửa đổi quy định về thẩm quyền đánh giá, phân loại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Theo đó, Luật Bảo hiểm tiền gửi cần sửa, đổi bổ sung theo hướng Thủ tướng Chính phủ quy định khung phí bảo hiểm tiền gửi theo đề nghị của NHNN; căn cứ vào khung phí bảo hiểm tiền gửi, NHNN quy định mức phí bảo hiểm tiền gửi cụ thể đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi trên cơ sở kết quả đánh giá và phân loại của DIV đối với các tổ chức này. Cho phép DIV được đánh giá, xếp loại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi dựa trên các tiêu chí riêng và thông tin được phép tiếp cận từ NHNN để làm căn cứ trong trường hợp tính phí bảo hiểm tiền gửi theo mức phí phân biệt.
Bảo vệ người gửi tiền là mục tiêu cốt lõi của chính sách bảo hiểm tiền gửi. Người gửi tiền được bảo vệ trực tiếp thông qua chi trả tiền bảo hiểm khi tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bị đỗ vỡ và bảo vệ gián tiếp thông qua sự phát triển an toàn lành mạnh của hệ thống tài chính ngân hàng. Thời gian qua, chính sách bảo hiểm tiền gửi đã có đóng góp tích cực cho tiến trình đổi mới và phát triển hoạt động của các TCTD ở Việt Nam. Để nâng cao hiệu quả đóng góp của chính sách bảo hiểm tiền gửi, cập nhật khuôn khổ pháp lý của hoạt động bảo hiểm tiền gửi là cần thiết. Hơn nữa, Luật Bảo hiểm tiền gửi hiện hành với nhiều nội dung đang ở mức độ đề cập và gợi mở, mức độ chi tiết và cập nhật so với quốc tế còn đang có khoảng cách đáng kể, tiêu biểu là: rút ngắn thời gian chi trả bảo hiểm tiền gửi, kiểm soát rủi ro đạo đức, và tiến tới áp dụng phí bảo hiểm tiền gửi có phân biệt…cần được thể hiện trong Luật Bảo hiểm tiền gửi sửa đổi tới đây.
Theo DIV