Thứ tư, 13/11/2024
   

Nền tảng chính trị, kinh tế - xã hội ổn định là lý do dòng tiền “tìm đến” ngân hàng dù lãi suất huy động giảm sâu

Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam Nguyễn Quốc Hùng đã lý giải về việc dòng tiền vẫn đổ về ngân hàng ở mức cao nhất từ trước đến nay dù lãi suất tiết kiệm giảm sâu. Ông Hùng cũng phân tích, làm rõ vấn đề liên quan tới điểm mới trong
Ông Nguyễn Quốc Hùng - Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam
Ông Nguyễn Quốc Hùng - Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam

Phóng viên: Tại Chỉ thị 01/CT-NHNN (Chỉ thị 01) vừa được Ngân hàng Nhà nước (NHNN) ban hành đã xác định mục tiêu và nhiệm vụ tổng quát của ngành Ngân hàng trong năm 2024, trong đó xác định rõ điều hành tín dụng hài hòa với diễn biến kinh tế vĩ mô nhằm góp phần hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát…. Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam và các tổ chức hội viên sẽ làm gì để hoàn thành các nhiệm vụ đề ra tại Chỉ thị 01, thưa ông?

TS. Nguyễn Quốc Hùng: Chỉ thị 01 vừa được NHNN ban hành mang tính toàn diện, đồng bộ chỉ đạo các tổ chức tín dụng (TCTD) hoạt động an toàn, hiệu quả, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát.

Bên cạnh việc điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) chủ động, linh hoạt, kịp thời, hiệu quả, phối hợp đồng bộ, hài hòa, chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác, Chỉ thị 01 đã nêu rõ phương hướng điều hành tín dụng trong năm 2024 là: điều hành tín dụng hài hòa với diễn biến kinh tế vĩ mô nhằm góp phần hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an toàn hoạt động của TCTD. Điều hành tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống các TCTD năm 2024 khoảng 15%, có điều chỉnh phù hợp với diễn biến, tình hình thực tế.

Chỉ thị 01 còn yêu cầu triển khai quyết liệt, hiệu quả Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021-2025”, góp phần phát triển hệ thống các TCTD hoạt động lành mạnh, chất lượng, hiệu quả, công khai, minh bạch theo quy định của pháp luật và tiệm cận, đáp ứng các chuẩn mực, thông lệ quốc tế.

Chỉ thị đồng thời nhấn mạnh việc tăng cường đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát ngành Ngân hàng. Tập trung thanh tra, kiểm tra, giám sát các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro nhằm ngăn chặn, phát hiện và xử lý nghiêm các rủi ro, tồn tại và sai phạm của TCTD, góp phần bảo đảm an ninh, kỷ luật trên thị trường tiền tệ, ngân hàng.

Tại Chỉ thị, NHNN cũng yêu cầu đẩy mạnh hoạt động chuyển đổi số, tiếp tục triển khai các giải pháp đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt, hoạt động ngân hàng số và đảm bảo an ninh, an toàn, bảo mật trong hoạt động ngân hàng…

Theo tôi, các nội dung trong Chỉ thị 01 là hướng chuẩn bị hành trang rất cần thiết để thời gian tới các ngân hàng triển khai hiệu quả Luật Các TCTD (sửa đổi) sẽ chính thức có hiệu lực từ ngày 1/7/2024.

Với vai trò, trách nhiệm của mình, Hiệp hội Ngân hàng kêu gọi các tổ chức hội viên thực hiện nghiêm túc các mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể được đề ra tại Chỉ thị 01của NHNN nhằm chung tay cùng với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, NHNN và các bộ, ngành kiểm soát lạm phát, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế hợp lý.

Phóng viên: Một điểm mới trong điều hành CSTT năm nay, được dư luận quan tâm là NHNN đã giao hết chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng 15% ngay từ đầu năm. Điều được cho là sẽ giúp các TCTD chủ động hơn trong việc lên kế hoạch phân bổ tín dụng cho cả năm. Tuy nhiên, cũng có không ít ý kiến lo ngại về việc các ngân hàng sẽ cho vay ồ ạt, dẫn đến chất lượng tín dụng không được kiểm soát. Quan điểm của ông với vấn đề này như thế nào?

TS. Nguyễn Quốc Hùng: Tôi cho rằng, việc giao toàn bộ chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng 15% cho các TCTD ngay từ đầu năm là một bước tiến lớn trong điều hành CSTT của NHNN. Quyết định này sẽ giúp các TCTD lên kế hoạch sớm và tự chủ được các quyết định của mình. Đồng thời, các TCTD cũng chủ động hơn trong việc xây dựng kế hoạch kinh doanh, kế hoạch đầu tư phù hợp, để trình cổ đông thông qua tại kỳ họp Đại hội đồng cổ đông thường niên tới đây.

Sự chủ động cũng giúp các TCTD có thể mở rộng tín dụng, hướng dòng vốn vào những lĩnh vực sản xuất, kinh doanh có hiệu quả như: khu vực nông nghiệp, nông thôn, lâm sản, thủy sản, và các lĩnh vực ưu tiên. Đồng thời, tiếp tục đẩy mạnh tín dụng tiêu dùng, góp phần hạn chế và đẩy lùi tín dụng đen.

Việc giao toàn bộ chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng 15% cho các TCTD ngay từ đầu năm là một bước tiến lớn trong điều hành CSTT của NHNN

 

Đối với những ý kiến lo ngại cho rằng TCTD sẽ cho vay ồ ạt, dẫn đến chất lượng tín dụng không được kiểm soát, tôi cho rằng không đáng để lo ngại. Bởi lẽ, hoạt động cho vay của các ngân hàng bị ràng buộc chặt chẽ bởi rất nhiều quy định pháp luật. Bản thân các TCTD cũng xác định khi cho vay cần phải đảm bảo được các hệ số an toàn, bởi vì nếu vi phạm thì cơ quan quản lý sẽ có biện pháp xử lý. Do vậy, sẽ không có chuyện tăng trưởng tín dụng ồ ạt mà không đảm bảo chất lượng và không giám sát chặt chẽ dòng vốn cho vay.

Bản thân các TCTD hiện nay cũng đang thực hiện rà soát, đánh giá lại hoạt động kinh doanh của mình để có những giải pháp hợp lý, hướng dòng vốn tập trung vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh phù hợp, có hiệu quả.

Phóng viên: Một trong những nhiệm vụ trọng tâm tại Chỉ thị 01 được NHNN đề cập đến là yêu cầu các TCTD đẩy mạnh công tác xử lý, thu hồi nợ xấu; nâng cao chất lượng tín dụng, ngăn ngừa, hạn chế nợ xấu mới phát sinh. Vậy, trong bối cảnh Nghị quyết 42 đã hết hiệu lực từ ngày 31/12/2023 và Luật Các TCTD (sửa đổi) đến ngày 1/7/2024 mới có hiệu lực, công tác xử lý nợ xấu và tài sản bảo đảm của ngân hàng sẽ đối mặt với những khó khăn nào, thưa ông?

TS. Nguyễn Quốc Hùng: Một trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng của các TCTD trong năm 2024 và những năm tiếp theo là vấn đề xử lý nợ xấu. Do đó, công tác thu hồi nợ xấu và xử lý nợ xấu là một trong những nhiệm vụ mà các TCTD cần xây dựng kịch bản, kế hoạch, giải pháp để công tác này đạt hiệu quả.

Trong bối cảnh Nghị quyết 42 đã hết hiệu lực sẽ gây khó khăn cho các TCTD trong công tác thu hồi nợ, xử lý các khoản nợ và tài sản bảo đảm (TSBĐ). Dẫu vậy, các TCTD vẫn cần tuân thủ, thực hiện theo quy định của pháp luật để đảm bảo đôn đốc, xử lý thu hồi nợ đúng với các quy định của pháp luật và Luật Dân sự.

Điều tôi lo lắng khi Nghị quyết 42 hết hiệu lực là vấn đề về ý thức trả nợ, tâm lý chây ì không trả nợ, bởi không có giải pháp, quy định pháp luật nào để thu hồi và xử lý nợ xấu. Sẽ lại xuất hiện tình trạng “con nợ” cố tình không trả nợ, không tự nguyện bàn giao tài sản, tạo ra những trường hợp tranh chấp giả tạo dẫn đến khó khăn trong việc thu hồi nợ… Điều này ảnh hưởng rất lớn đến các TCTD.

Trong Luật Các TCTD (sửa đổi) vừa được Quốc hội thông qua, các TCTD cũng không có đặc quyền thu giữ TSBĐ. Do vậy, các TCTD cần xác định việc thu nợ là nhiệm vụ của mình, trước khi cho vay cần hết sức chặt chẽ, đảm bảo đúng nguyên tắc, thủ tục và điều kiện cho vay.

 

Đây là vấn đề không chỉ riêng Hiệp hội Ngân hàng mà các TCTD cũng rất lo lắng, bởi trước đây còn có các tổ chức chính quyền cùng vào cuộc trong việc xử lý, thu hồi nợ, nhưng bây giờ chỉ còn ngân hàng “đơn thương độc mã” trong xử lý nợ xấu. Nếu người dân chây ì không trả nợ, các TCTD không thể xử lý được và phải đưa ra tòa thì một vụ việc khi đó sẽ mất rất nhiều thời gian, thậm chí kéo dài tới 5-7 năm vẫn chưa thu hồi được nợ. Tình trạng này tái diễn thì đến bao giờ ngân hàng mới xử lý được nợ xấu?

Trong Luật Các TCTD (sửa đổi) vừa được Quốc hội thông qua, các TCTD cũng không có đặc quyền thu giữ TSBĐ. Do vậy, các TCTD cần xác định việc thu nợ là nhiệm vụ của mình, trước khi cho vay cần hết sức chặt chẽ, đảm bảo đúng nguyên tắc, thủ tục và điều kiện cho vay. TSBĐ cần được thẩm định, xác minh, đánh giá giá trị, nguồn gốc tài sản và theo sát từng thời điểm để có thể nắm bắt diễn biến của TSBĐ. Cần chặt chẽ hơn trong việc xác định TSBĐ theo đúng quy định pháp luật, không có kẽ hở nào để người vay có thể lợi dụng. Đồng thời, các TCTD cần nâng cao trách nhiệm trong việc thẩm định, xác định giá trị và hiện trạng của TSBĐ, kể cả tài sản của bên thứ 3 và các thành viên liên quan đến tài sản đó cũng cần hết sức chặt chẽ, không thể buông lỏng. Làm tốt các bước này sẽ góp phần nâng cao hiệu quả xử lý nợ xấu tại các TCTD.

Về lâu dài, cần có hành lang pháp lý mới, đồng bộ hơn để giải quyết bài toán “cục máu đông” nợ xấu. Theo tôi, cần sửa đổi Luật Dân sự để phù hợp hơn với thực tiễn, có quy trách nhiệm rõ ràng cho những người có khả năng trả nợ mà chây ì không trả nợ.

Phóng viên: Phải chăng việc lo ngại nợ xấu gia tăng, khó thu hồi nợ; hay cán bộ ngân hàng sợ trách nhiệm… dẫn đến “e dè” khi cho vay, là những nguyên nhân dẫn đến tăng trưởng tín dụng chậm, nhất là trong những quý đầu năm 2023?

TS. Nguyễn Quốc Hùng: Tăng trưởng tín dụng chậm có 2 nguyên nhân:

Thứ nhất, khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế còn yếu do tình hình địa chính trị thế giới diễn biến phức tạp, ảnh hưởng lớn đến các hoạt động chung của toàn cầu, dẫn đến nhu cầu tiêu dùng của các nước trong khu vực và thế giới giảm. Những tác động tiêu cực từ kinh tế thế giới, cùng với những khó khăn nội tại trong nước đã khiến các động lực tăng trưởng xuất khẩu, đầu tư, tiêu dùng của Việt Nam đều bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Dẫn đến, nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp suy giảm;

Thứ hai, cũng cần thẳng thắn thừa nhận, trong bối cảnh hiện nay, không ít cán bộ tín dụng có tâm lý e ngại về trách nhiệm khi phê duyệt tín dụng, đặc biệt với các hồ sơ/phương án kinh doanh chưa thực sự khả thi. Điều này dẫn đến việc ra quyết định tín dụng sẽ thận trọng hơn, để đảm bảo an toàn dòng vốn.

Do vậy, để giải quyết những bất cập trên, giải pháp quan trọng là đẩy mạnh kích cầu tiêu dùng trong nước. Tiếp đến là, tập trung đẩy mạnh hoạt động sản xuất, kinh doanh đối với lĩnh vực nông, lâm, thủy sản. Đây là các lĩnh vực mở ra tiền đề trong năm 2023, giúp mang về nguồn ngoại tệ tương đối lớn.

Phóng viên: Như ông đã nói, có một số lĩnh vực tạo nền tảng tốt trong năm 2023, tạo đà cho năm 2024; giới chuyên môn cũng đưa ra dự báo kinh tế trong nước và thế giới năm 2024 sẽ sáng hơn, mặt bằng lãi suất tại Việt Nam đang ở mức thấp kỷ lục… Tất cả những yếu tố trên được cho là sẽ tạo động lực tốt cho tăng trưởng. Trong bối cảnh đó, liệu tăng trưởng tín dụng có cải thiện hơn năm 2023 không và liệu các ngân hàng có giảm thêm lãi suất cho vay không thưa ông?

TS. Nguyễn Quốc Hùng: Một trong những “hiện tượng lạ” mà tôi chưa từng thấy trong ngành Ngân hàng trước đây đó là, trong bối cảnh thế giới lạm phát cao, ở Việt Nam mức lãi suất thấp kỷ lục nhưng nguồn tiền nhàn rỗi vẫn đổ vào hệ thống ngân hàng. Cần nói rõ là nguồn tiền đổ vào ngân hàng không hoàn toàn từ dân cư mà đến từ cả các tổ chức kinh tế.

Điều này theo tôi có thể lý giải như sau:

Thứ nhất, trong bối cảnh xung đột địa chính trị trên thế giới vẫn còn diễn biến phức tạp, tình hình kinh tế nhiều nước trên thế giới mặc dù đã cải thiện song vẫn luôn trong trạng thái chưa ổn định, lạm phát có thể quay lại và bùng phát bất cứ lúc nào… Còn ở nước ta, tiền đồng Việt Nam (VND) là một trong những đồng tiền ổn định trong khu vực và trên thế giới, bởi dưới sự lãnh đạo của Đảng, Quốc hội, Chính phủ đã có những chủ trương chính sách phù hợp, vì vậy, chúng ta có một nền tảng chính trị, kinh tế, xã hội hết sức an toàn và ổn định.

Một trong những “hiện tượng lạ” mà tôi chưa từng thấy trong ngành Ngân hàng trước đây đó là, trong bối cảnh thế giới lạm phát cao, ở Việt Nam mức lãi suất thấp kỷ lục nhưng nguồn tiền nhàn rỗi vẫn đổ vào hệ thống ngân hàng.

 

Thứ hai, thị trường vốn chưa ổn định, kênh huy động vốn qua chứng khoán, trái phiếu còn gặp nhiều khó khăn, chưa lấy lại niềm tin của nhà đầu tư; thị trường bất động sản trầm lắng... Do vậy, kênh gửi tiền tại ngân hàng đang là nơi “trú ẩn” ổn định và an toàn nhất cho nguồn vốn nhàn rỗi.

Về việc ngân hàng chậm giảm lãi suất cho vay, tôi cho rằng cần nhìn nhận một cách đầy đủ và toàn diện hơn trên các khía cạnh:

Thứ nhất, cuối năm 2022 và đầu năm 2023 các ngân hàng thương mại huy động với lãi suất rất cao 10 - 12%/năm với kỳ hạn 6-12 tháng. Do vậy, lãi suất cho vay thời điểm đó cũng rất cao, đến nay mặc dù lãi suất huy động giảm nhưng vì thời hạn huy động lãi suất cao tối thiểu là 6 - 12 tháng nên các NHTM phải giảm dần tương ứng và không thể giảm ngay được.

Thứ hai, các NHTM muốn giảm lãi suất cũng phải tuân thủ theo quy định pháp luật, vì giao kết ban đầu với lãi suất cao, nay muốn giảm lãi suất cần phải có chủ trương của nhà nước, nghị quyết của HĐQT/HĐTV và đảm bảo theo quy định pháp luật, đồng thời phải có cơ sở để giải trình với cơ quan thanh tra, kiểm toán. Việc giảm lãi suất cho vay cần đảm bảo tuân thủ theo đúng quy định pháp luật, đảm bảo minh bạch, rõ ràng, có lộ trình. Vì vậy, không thể thực hiện một cách tuỳ tiện.

Thứ ba, việc biên lãi thuần (NIM) đang trong đà giảm và nợ xấu có xu hướng tăng khiến các ngân hàng thận trọng hơn trong việc cho vay và có sự phân hoá về mức giảm lãi suất cho vay. Ngân hàng sẽ cân nhắc hạ lãi suất cho một số nhóm doanh nghiệp có triển vọng kinh doanh tốt để tái cấu trúc nợ, hỗ trợ và đồng hành cùng doanh nghiệp vượt qua khó khăn.

Năm 2024 được kỳ vọng là năm sẽ khởi sắc đối với hoạt động kinh tế vĩ mô nói chung, hoạt động tín dụng ngân hàng nói riêng. Các diễn biến kinh tế cho thấy, nhu cầu tiêu dùng tại nhiều quốc gia trên thế giới đã và đang dần phục hồi, nhu cầu hàng hóa dự báo sẽ tăng cao. Cơ hội cho các mặt hàng xuất khẩu vốn là lợi thế của Việt Nam, đặc biệt liên quan đến nông nghiệp, lâm sản và thủy sản sẽ rất lớn. Ở trong nước, cầu tiêu dùng cũng đang cải thiện, hoạt động của các doanh nghiệp cũng đang tốt lên. Nắm bắt thời cơ đó, theo tôi, dòng vốn ngân hàng cũng nên tập trung nhiều vào các lĩnh vực này để đem lại hiệu quả cao nhất. Qua đó, góp phần thúc đẩy tăng trưởng tín dụng ngay từ đầu năm.

Phóng viên: Xin trân trọng cảm ơn ông!

Tính lãi tiền gửi
VNĐ
%/year
month
Tính lãi tiền gửi

Tính toán khoản vay
VNĐ
%/year
month
Tính toán khoản vay