Trong vòng 50 năm qua, lạm phát toàn cầu có những biến động mạnh nhất xung quanh các cuộc suy thoái kinh tế thế giới; Thường có xu hướng giảm trong một vài tháng, dưới tác động của các cú sốc xảy ra cùng lúc, sau đó phục hồi dần lên mức thấp hơn trước khi xảy ra suy thoái.
Các thống kê của Ngân hàng thế giới (WB) cho thấy, trong cuộc suy thoái toàn cầu năm 2020 do đại dịch COVID-19 gây ra, lạm phát có mức độ giảm ít nhất và có tốc độ phục hồi nhanh nhất so với các giai đoạn suy thoái kinh tế thế giới trong năm thập kỷ trước đó.
Các yếu tố tác động đến lạm phát trong suy thoái toàn cầu
Kể từ năm 1970 lại đây, lạm phát toàn cầu đã có xu hướng giảm dần. Tuy nhiên, có một số khác biệt đáng chú ý trong xu hướng giảm này có liên quan đến các cuộc suy thoái toàn cầu. Trong các cuộc suy thoái, sản lượng toàn cầu sụt giảm đột ngột cùng với sự lao dốc của giá dầu mỏ, khiến cho tỷ lệ lạm phát giảm. Trong quá trình phục hồi sau đó, áp lực lạm phát xuất hiện sau một số cuộc suy thoái toàn cầu do tình trạng nguồn cung yếu kéo dài kết hợp với sự phục hồi của nhu cầu.
Các cuộc suy thoái toàn cầu thường kéo theo lạm phát giảm mạnh khi khủng hoảng chạm đáy, trước khi tăng trở lại cùng với sự phục hồi của nền kinh tế thế giới. Hầu hết những biến động lạm phát trong các cuộc suy thoái toàn cầu trong 50 năm qua được thúc đẩy bởi nhiều yếu tố khác nhau như nguồn cung, nhu cầu, giá dầu mỏ, các chính sách vĩ mô,…
Suy thoái toàn cầu năm 1975: giảm phát chủ yếu xuất phát từ các cú sốc về giá dầu, cũng như tác động của yếu tố cung và cầu thế giới. Điều này phần nào có nguyên nhân từ việc lạm phát giảm sau khi đã tăng mạnh trong cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1973-74. Tại thời điểm đó, giá dầu đã tăng gấp bốn lần và các lệnh cấm vận dầu mỏ đã làm gián đoạn nghiêm trọng hoạt động vận chuyển và sản xuất. Cú sốc giá dầu và cú sốc nhu cầu là động lực chủ yếu của giảm phát chỉ số sản xuất (PPI), trong khi cú sốc về giá dầu và nguồn cung là nguyên nhân chính của giảm phát giá tiêu dùng (CPI). Giảm phát thời điểm này chủ yếu phản ánh việc phục hồi sau những cú sốc giá dầu và tác động lạm phát của tiền lương và các kiểm soát giá tiêu dùng được dỡ bỏ; cùng với sự sụp đổ của hệ thống tỷ giá hối cố định Bretton Woods vào năm 1971. Vai trò chủ đạo của giá dầu mỏ trong các yếu tố tác động đến lạm phát giá tiêu dùng cơ bản giai đoạn này cũng có thể cho thấy kỳ vọng lạm phát đã không được neo giữ tốt khi neo danh nghĩa của cơ chế tỷ giá cố định Bretton Woods bị mất.
Suy thoái toàn cầu năm 1982: giảm phát có động lực bắt nguồn từ những cú sốc về nhu cầu (chiếm tỷ trọng 1/2), các cú sốc nguồn cung toàn cầu (chiếm 1/4) và giá dầu mỏ thế giới (chiếm 1/4). Sự giảm phát này cũng là một phần kết quả của các phản ứng chính sách có chủ đích với việc thắt chặt chính sách tiền tệ tại các nền kinh tế phát triển - đặc biệt là Hoa Kỳ - trước tình trạng lạm phát tăng cao sau cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1979 (diễn ra sau cuộc cách mạng Hồi giáo tại Iran). Trong giai đoạn này, cú sốc cung và cầu là nguồn gốc chính của giảm phát giá tiêu dùng cơ bản, còn các cú sốc về nhu cầu là động lực chính của giảm phát PPI. Giảm phát thời kỳ này cũng phần nào phản ánh tình trạng hồi phục chậm chạp kéo dài của các cú sốc trước đó. Vào cuối những năm 1970, kỳ vọng lạm phát tại một số nền kinh tế phát triển đã không được neo giữ và vòng xoáy lạm phát - tiền lương trở nên cố hữu tại các nền kinh tế lớn trong khi tăng trưởng trì trệ ở mức thấp. Giá dầu mỏ đã tăng gấp đôi trong năm 1979 làm áp lực lạm phát thêm trầm trọng. Việc thắt chặt tiền tệ ở hầu khắp các nền kinh tế phát triển đầu những năm 1980 đã giúp ổn định kỳ vọng lạm phát nhưng cũng đồng thời là nguyên nhân gây ra các cuộc suy thoái.
Suy thoái toàn cầu năm 1991: giảm phát chủ yếu bị tác động bởi nhu cầu thế giới giảm sút do khủng hoảng tài chính và thắt chặt tín dụng tại một số nền phát triển để lại trong cuộc suy thoái.
Khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008-2009: Giảm phát có nguyên nhân từ cả hai cú sốc về nhu cầu thế giới và cú sốc giảm giá dầu mỏ. Mặc dù các nền kinh tế đã triển khai biện pháp hỗ trợ tài khóa và chính sách tiền tệ chưa từng có tiền lệ, khủng hoảng tài chính thế giới đã gây ra một cuộc suy thoái toàn cầu sâu sắc. Trong vòng 5 tháng, kể từ tháng 7/2008, giá dầu mỏ thế giới đã giảm 2/3, cùng với nhu cầu suy yếu đã góp phần làm giảm lạm phát PPI toàn cầu. Trong khi đó, lạm phát giá tiêu dùng cơ bản nhìn chung vẫn ổn định do sức cầu yếu được bù trừ bởi sự sụt giảm về nguồn cung. Từ đầu những năm 2000, kỳ vọng lạm phát được neo giữ tốt đã giúp ổn định lạm phát trước tác động bất lợi của các cú sốc về cầu.
Lạm phát trong hai cuộc suy thoái toàn cầu gần nhất
So sánh dữ liệu lạm phát hàng tháng của 31 nền kinh tế phát triển và 50 nền kinh tế mới nổi và đang phát triển trong giai đoạn 2001 - 2021 cho thấy trong suy thoái kinh tế toàn cầu năm 2020, lạm phát giảm ở mức độ thấp hơn và có thời gian tồn tại ngắn hơn so với thời kỳ khủng hoảng tài chính năm 2009. Điều này có thể phản ánh thực tế sau suy giảm do đại dịch COVID-19 năm 2020, kinh tế thế giới đã phục hồi nhanh hơn so với bất kỳ cuộc suy thoái toàn cầu nào trong vòng 50 năm qua, mặc dù tăng trưởng có mức giảm sút nghiêm trọng nhất kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
Trong năm 2020, lạm phát đã giảm 0,9 điểm % trên toàn cầu và 1,2 điểm % tại các EMDE kể từ tháng 1/2020 cho đến khi chạm đáy vào tháng 5/2020. Ngược lại, kể từ tháng 9/2008 đến tháng 10/2009, lạm phát đã giảm 6,3 điểm % trên toàn cầu và 7,6 điểm % tại các EMDE. Trong khi lạm phát bắt đầu tăng trở lại ở phần lớn các quốc gia trên thế giới vào tháng 5/2020- chỉ 5 tháng sau khi đại dịch COVID-19 bùng phát; thì trong khủng hoảng 2008, lạm phát chỉ tăng lên ở hầu hết các nền kinh tế sau khi chạm đáy từ tháng 10/2009 - 13 tháng sau sự phá sản của ngân hàng Lehman Brothers. Mặc dù vậy, so với các cuộc suy thoái toàn cầu trước đây, lạm phát trong khủng hoảng tài chính thế giới năm 2009 vẫn có mức giảm thấp hơn và tồn tại trong thời gian ngắn hơn.
Việc lạm phát toàn cầu giảm trong thời gian từ tháng 1 đến tháng 5/2020 đa phần là do sự sụp đổ trong nhu cầu thế giới và một phần khác có nguyên nhân từ sự lao dốc của giá dầu mỏ, tuy có một số áp lực lạm phát từ sự gián đoạn nguồn cung. Điều này hoàn toàn trái ngược với những gì diễn ra trong khủng hoảng tài chính toàn cầu, khi sự sụt giảm của lạm phát chủ yếu bị ảnh hưởng bởi giá dầu lao dốc và chỉ một phần do tác động của sự thu hẹp sức cầu trên thế giới. Theo WB, vai trò lớn hơn của cầu thế giới đối với suy giảm lạm phát năm 2020 so với các cuộc suy thoái trước đó có thể phản ánh mức độ nghiêm trọng của cuộc suy thoái năm 2020. Tuy nhiên, trong quá trình phục hồi sau hai cuộc khủng hoảng năm 2009 và 2020, lạm phát có diễn biến giống nhau và cả hai hầu như hoàn toàn được thúc đẩy bởi sự gia tăng nhu cầu trên toàn thế giới.
Trong năm 2020, kỳ vọng lạm phát ngắn hạn (một năm tới) đã giảm 0,3 điểm % trên toàn cầu từ tháng 3 đến tháng 5, trước khi ổn định trở lại ở mức 2,0% cho phần còn lại của năm 2020. Chúng chỉ tăng thêm 0,2 % vào tháng 3/2021 khi quá trình phục hồi rõ ràng đã diễn ra nhanh hơn dự kiến và các biện pháp hỗ trợ chính sách mới đã được phê duyệt. Tại các EMDE, kỳ vọng lạm phát giảm 0,5 điểm % trong suốt năm 2020, sau đó tăng trở lại 0,4 điểm % vào tháng 3/2021. Diễn biến này của kỳ vọng lạm phát ngắn hạn trái ngược hẳn với những gì diễn ra trong giai đoạn 2008-2009, khi kỳ vọng lạm phát ngắn hạn đã giảm 2.1 điểm % trên toàn cầu và giảm 2,6 điểm % tại các EMDE.
Kỳ vọng lạm phát dài hạn cũng ổn định trong năm 2020, trên phạm vi toàn cầu nói chung và tại các EMDE nói riêng so với trong khủng hoảng tài chính thế giới. Điều này phần nào phản ánh quan điểm cho rằng những bất ổn do đại dịch COVID-19 gây ra đối với nền kinh tế chỉ mang tính chất tạm thời và do đó có thể đã giúp giảm bớt những biến động của lạm phát toàn cầu.
Theo SBV