Vốn hóa của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank, mã chứng khoán: VCB) tăng hơn 4% trong phiên cuối tuần và 7% so với cuối tháng trước.
Vietcombank đang là doanh nghiệp niêm yết duy nhất trên sàn TP HCM có vốn hóa vượt trên 10 tỷ USD. Vốn hóa của Vietcombank lớn hơn của hai doanh nghiệp xếp sau là Vinhomes và BIDV cộng lại. Chỉ tính riêng ngành ngân hàng, vốn hóa của Vietcombank tương đương ba ngân hàng khác cộng lại gồm BIDV (224.100 tỷ đồng), Vietinbank (142.000 tỷ đồng) và VPBank (133.800 tỷ đồng).
Vốn hóa Vietcombank biến động mạnh khi nhà băng này thông báo phát hành hơn 865 triệu cổ phiếu để trả cổ tức với tỷ lệ thực hiện quyền là 18,1%, tức cổ đông sở hữu 1.000 cổ phiếu được nhận thêm 181 cổ phiếu mới. Vốn điều lệ sau chia cổ tức là 55.891 tỷ đồng, trở thành ngân hàng có vốn điều lệ lớn thứ hai hệ thống (sau VPBank 67.434 tỷ).
Tính từ đầu năm đến nay, thị giá Vietcombank đã tăng 31% và vượt xa dự phóng của một số công ty chứng khoán. Điển hình như Công ty Chứng khoán Mirae Asset Việt Nam hồi tháng 4 nâng kỳ vọng giá mục tiêu cổ phiếu này trong 12 tháng tới từ 90.300 đồng lên 94.100 tỷ đồng. Tuy nhiên, giá hiện tại đã cao hơn kỳ vọng gần 12%.
Trong báo cáo phân tích công bố cuối tháng 5, Công ty Chứng khoán VNDirect cũng nâng giá mục tiêu đối với Vietcombank từ 91.000 đồng lên 108.700 đồng, còn Công ty Chứng khoán MB nâng từ 92.800 đồng lên 109.850 đồng và đưa ra khuyến nghị mua khi sử dụng phương pháp định giá P/B kết hợp phương pháp thu nhập thặng dư.
Nhóm phân tích VNDirect gọi cổ phiếu Vietcombank là "nơi trú ẩn trong những ngày giông bão" bởi chất lượng tài sản và lợi thế đầu ngành, kết quả kinh doanh vượt trội cũng như danh mục cho vay lành mạnh.
Đồng quan điểm nhưng nhóm phân tích Chứng khoán MB bổ sung thêm luận điểm thu hút đầu tư vào cổ phiếu Vietcombank là NIM (tỷ lệ thu nhập lãi thuần) có thể hồi phục trong nửa cuối năm nay và duy trì trong các năm tới. NIM của Vietcombank trong quý đầu năm đạt 3,25%, thấp hơn mức 3,33% của cuối năm ngoái. Tuy nhiên, việc tiếp tục đưa ra mức lãi suất huy động thấp hơn so với các ngân hàng khác giúp ngân hàng này có dư địa để áp dụng mức lãi suất cho vay thấp hơn, qua đó tạo lợi thế cạnh tranh trong ngành đối với các khoản vay mới.