Thứ hai, 23/06/2025
   

Việt Nam đẩy mạnh chuyển đổi kỹ thuật số để phục hồi kinh tế sau đại dịch

Làn sóng lây nhiễm COVID-19 lần thứ 4 đã tác động mạnh đến nền kinh tế Việt Nam, khiến cho sản xuất, tiêu dùng, đầu tư, công nghiệp giảm sút, hoạt động của các doanh nghiệp và đời sống người dân cũng bị ảnh hưởng lớn. Mặc dù gặp nhiều khó khăn, nhưng GDP của Việt Nam vẫn duy trì mức tăng trưởng 2,6%

Làn sóng lây nhiễm COVID-19 lần thứ 4 đã tác động mạnh đến nền kinh tế Việt Nam, khiến cho sản xuất, tiêu dùng, đầu tư, công nghiệp giảm sút, hoạt động của các doanh nghiệp và đời sống người dân cũng bị ảnh hưởng lớn. Mặc dù gặp nhiều khó khăn, nhưng GDP của Việt Nam vẫn duy trì mức tăng trưởng 2,6% trong năm 2021.

Theo đánh giá của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), nền kinh tế Việt Nam dự kiến sẽ đạt tốc độ tăng trưởng 6,5% -7,0% vào năm 2022 và xa hơn, nhờ tiến độ tiêm chủng nhanh chóng, sự phục hồi bền vững của kinh tế toàn cầu và một số động lực chính của tăng trưởng kinh tế, bao gồm cả quá trình chuyển đổi kỹ thuật số của nền kinh tế.

Theo ADB, Việt Nam đã đạt được thành công bước đầu trong việc phát triển nền kinh tế kỹ thuật số trong 5 năm qua, bao gồm những cải thiện về khuôn khổ pháp lý, cơ sở hạ tầng kỹ thuật số, lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông (ICT), các nền tảng kỹ thuật số và an ninh mạng. Việt Nam cũng đã đạt được những tiến bộ đáng kể trong lĩnh vực tài chính kỹ thuật số, được xúc tác bởi việc tăng cường sử dụng thanh toán kỹ thuật số trong thời kỳ đại dịch, dân số trẻ và hiểu biết về công nghệ cũng như sự bùng nổ trong việc sử dụng điện thoại thông minh. Cả ba phân ngành tài chính gồm: ngân hàng, chứng khoán và bảo hiểm đều đã áp dụng thành công các công nghệ kỹ thuật số mới trong 5 năm qua. Với cam kết mạnh mẽ từ chính phủ cùng các chính sách khuyến khích và các quy định kịp thời cho các công ty khởi nghiệp và các dịch vụ tài chính mới nổi, bao gồm cả “cơ chế sandbox” để thử nghiệm các sản phẩm mới, lĩnh vực tài chính kỹ thuật số của Việt Nam dự kiến sẽ ghi nhận mức tăng trưởng chưa từng có trong giai đoạn 2021-2025 và xa hơn khi các lĩnh vực như thanh toán không dùng tiền mặt, tài chính bao trùm và tài chính xanh được khuyến khích.

Diễn biến kinh tế trong thời kỳ đại dịch

Bất chấp diễn biến phức tạp và khó lường của đại dịch, tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2020 vẫn nằm trong số các nền kinh tế có mức tăng cao nhất trên thế giới với 2,9% năm. Năm 2021, trong bối cảnh bị ảnh hưởng nặng nề bởi làn sóng COVID-19, nền kinh tế Việt Nam vẫn cho thấy một số tín hiệu tích cực như: (i) việc tiêm vắc xin được đẩy mạnh, (ii) nhiều chính sách và gói hỗ trợ được ban hành, (iii) sản xuất công nghiệp phục hồi, (iv) thương mại tiếp tục đà tăng trưởng, (v) lạm phát ở mức thấp nhất trong 6 năm, (vi) đầu tư trực tiếp nước ngoài phục hồi, (vii) tỷ giá hối đoái ổn định, (viii) lãi suất cho vay giảm để hỗ trợ doanh nghiệp, (ix) quá trình chuyển đổi kỹ thuật số của đất nước đã đạt được những tiến bộ đáng kể.

Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức khác nhau, bao gồm (i) đại dịch vẫn diễn biến phức tạp trên toàn thế giới và trên phạm vi toàn quốc; (ii) doanh thu bán lẻ tiếp tục giảm cho thấy sức cầu yếu và phục hồi chậm; (iii) nguồn thu ngân sách nhà nước không bền vững trong bối cảnh chi tiêu tăng lên, dẫn đến thâm hụt tài khóa cao hơn; (iv) giải ngân vốn đầu tư công chậm; (v) một số trở ngại đối với doanh nghiệp; và (vi) tái cơ cấu nền kinh tế bị trì hoãn và nguy cơ gia tăng các khoản nợ xấu. Cả Ngân hàng Thế giới (WB) và ADB đều dự báo kinh tế Việt Nam sẽ phục hồi trong thời gian ngắn. Trong năm 2022 và xa hơn, tang trưởng của Việt Nam dự kiến đạt 6,5% -7,0%. Sự phục hồi này sẽ được hỗ trợ bởi sự phục hồi kinh tế toàn cầu bền vững hơn, tỷ lệ tiêm chủng cao trong nước và các động lực trong nước như chuyển đổi kỹ thuật số của nền kinh tế.

Năm 2021, lạm phát cả năm bình quân ở mức 1,8%, thấp nhất trong 6 năm, chủ yếu do sức cầu yếu. Với sự phục hồi kinh tế và cầu trong nước mạnh hơn, ADB dự kiến lạm phát cho năm 2022 là 3,8%. Một số yếu tốđược kỳ vọng sẽ góp phần vào tăng trưởng kinh tế mạnh mẽở Việt Nam: (i) sự nhất quán và quyết tâm của chính phủ trong việc cải cách thể chế (bao gồm cả lĩnh vực số), (ii) hội nhập quốc tế sâu rộng hơn thể hiện qua việc Việt Nam tham gia 16 hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương, (iii) sự tham gia của khu vực tư nhân năng động (iv) sự gia tăng tầng lớp trung lưu trẻ và hiểu biết về công nghệ, mang lại nhiều cơ hội cho thị trường lao động và người tiêu dùng trong nước trong việc tận dụng quá trình chuyển đổi kỹ thuật số của đất nước.

Nền kinh tế số của Việt Nam

Chuyển đổi số giai đoạn 2016-2021

Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 (ban hành kèm theo Quyết định 749/QĐ-TTg ngày 3/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ) xác định ưu tiên chuyển đổi kỹ thuật số là một trong những mục tiêu chính của Chiến lược phát triển quốc gia 2021-2030 của Việt Nam. Tám lĩnh vực ưu tiên đã được xác định cho chuyển đổi kỹ thuật số, trong đó bao gồm tài chính, y tế và giáo dục. Trong khi chưa có các định nghĩa tiêu chuẩn và số liệu thống kê đáng tin cậy đã khiến việc đánh giá các thành phần và khía cạnh của nền kinh tế kỹ thuật số của Việt Nam trở nên khó khăn, tương tự như hầu hết các nền kinh tế đang phát triển ở giai đoạn đầu của quá trình số hóa, Việt Nam rõ ràng đã và đang đạt được những tiến bộ đáng kể trong 5 năm qua. Một số thước đo đã cho thấy kết quả của những nỗ lực của quốc gia nhằm thúc đẩy số hóa. Theo báo cáo e-Conomy SEA 2020 của Google, Temasek và Bain & Company (2020) và sử dụng một định nghĩa hẹp về nền kinh tế kỹ thuật số bao gồm lĩnh vực công nghệ thông tin (ICT), các lĩnh vực sản xuất ICT, các sản phẩm và dịch vụ kỹ thuật số và tích hợp sẵn, giá trị nền kinh tế số của Việt Nam ước tính đạt 21 tỷ USD, tương đương 6,1% GDP của Việt Nam vào năm 2021, với tốc độ tăng trưởng kép hàng năm là 29% trong giai đoạn 2016-2021, nhanh nhất trong ASEAN.

Việt Nam cũng xếp hạng cao về số hóa trong bốn chỉ số toàn cầu phổ biến nhất: (i) Fletcher School’s Digital Intelligence Index, xếp Việt Nam là nền kinh tế “đột phá” với những tiến bộ kỹ thuật số phát triển nhanh chóng, cùng với Thái Lan, Indonesia và Campuchia; (ii) Cisco Global Digital Readiness Index xếp Việt Nam vào giai đoạn “tăng tốc (cao)” (giai đoạn giữa của mức độ sẵn sàng kỹ thuật số), ngang với Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Malaysia và cao hơn Philippines, Indonesia, Campuchia, Lào; (iii) Theo Global Connectivity Index, Việt Nam nằm trong nhóm “chấp nhận”, xếp thứ 55/79 quốc gia trên toàn cầu và thứ 5 trong ASEAN, sau Singapore (xếp thứ 2), Malaysia (34), Thái Lan (46) và Campuchia (54), nhưng cao hơn Indonesia (58) và Philippines (59); và (iv) Digital Adoption Index và Khuôn khổ Kết nối, Làm chủ, Đổi mới sáng tạo và Bảo vệ (CHIP) của WB đã xếp Việt Nam cùng nhóm với Thái Lan, Indonesia và ghi nhận thành tích tốt của đất nước trong kết nối và tiến bộ trong việc sử dụng các công cụ kỹ thuật số mới.

(i) Khung pháp lý. Chính phủ Việt Nam, các bộ, ngành và địa phương đã thực hiện một số bước đột phá trong việc xây dựng khung pháp lý thuận lợi cho chuyển đổi số. Một số chính sách và quy định đã đưa ra lộ trình và mục tiêu phát triển nền kinh tế số cùng với các mục tiêu kinh tế và xã hội khác. Các chính sách này nhằm khuyến khích các công ty khởi nghiệp, thúc đẩy việc áp dụng công nghệ trong các lĩnh vực mới nổi, đánh giá phạm vi và các cấu phần của nền kinh tế kỹ thuật số của đất nước, đồng thời cung cấp biện pháp bảo vệ nhiều hơn người tiêu dùng trực tuyến.

(ii) Phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật số. Chính phủ đã được chứng minh là vai trò người xây dựng hiệu quả cơ sở hạ tầng kỹ thuật số hiện đại. Trong hoạt động của chính mình, chính phủ điện tử đang phát triển nhanh chóng đã giảm đáng kể số lượng thủ tục hành chính và tăng số lượng dịch vụ công kỹ thuật số lên gấp 10 lần từ tháng 2/2020 đến 4/2021. Chính phủ cũng đã tìm cách thúc đẩy các doanh nghiệp vừa và nhỏ và khởi nghiệp, như đơn giản hóa thủ tục hành chính và thực hiện các sáng kiến khu vực, quốc gia và vùng như ASEAN Startup, Đối tác đổi mới sáng tạo Việt Nam, Trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia, Trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp quốc gia, Trung tâm Hỗ trợ khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo TP.Hồ Chí Minh (Saigon Innovation Hub), và Speed-UP để kết nối hệ sinh thái khởi nghiệp trong nước với phần còn lại của thế giới.

Việt Nam cũng có kết nối internet tương đối tốt. So với các nền kinh tế ASEAN khác, Việt Nam đang dẫn đầu trong việc triển khai “Công nghệ 5G”; chi phí truy cập internet của Việt Nam thuộc hàng thấp nhất và số lượng người dùng internet nhiều thứ ba, tỷ lệ sử dụng thiết bị di động cao thứ hai và tốc độ kết nối di động trung bình nhanh thứ hai trong khu vực. Theo một nghiên cứu của Hootsuite và We Are Social (2021), tỷ lệ kết nối internet, mạng xã hội và kết nối di động của Việt Nam lần lượt là 70,3%, 73,7% và 160,0%, cao hơn mức trung bình toàn cầu.

(iii) Kỹ năng và lực lượng lao động kỹ thuật số. Theo WB, chỉ số vốn con người của Việt Nam vào năm 2020 nằm trong nhóm phát triển con người cao, xếp thứ 48/157 quốc gia và thứ hai trong ASEAN (sau Singapore). Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo của cả nước tăng từ 51,6% năm 2015 lên khoảng 64,5% năm 2020. Với hơn 50.000 doanh nghiệp CNTT, 955.000 nhân viên CNTT và 80.000 sinh viên tốt nghiệp CNTT mỗi năm, Việt Nam ngày càng đạt được sức hút trong đầu tư công nghệ và khởi nghiệp, đưa đất nước từ điểm đến là gia công phần mềm CNTT sang điểm có thể sản xuất trong nước các sản phẩm công nghệ theo chương trình “Make in Vietnam”. Tuy nhiên, lực lượng lao động của Việt Nam vẫn thiếu các kỹ năng cần thiết để khai thác triệt để nền kinh tế kỹ thuật số. Việt Nam cần phát triển đội ngũ nhân tài chất lượng cao và nâng cao kỹ năng kỹ thuật số và kỹ năng mềm của người lao động để tận dụng đầy đủ các cơ hội số hóa.

Bên cạnh những nỗ lực và kết quả nêu trên, quá trình chuyển đổi kỹ thuật số ấn tượng của Việt Nam trong 5 năm qua có thể được nhìn thấy trong những bước phát triển sau:

(i) Động lực tăng trưởng mạnh mẽ trong lĩnh vực CNTT. Một trong những ngành công nghiệp hàng đầu tại Việt Nam, lĩnh vực CNTT (nền kinh tế kỹ thuật số cốt lõi) đã tăng trưởng với tốc độ tăng hàng năm là 26,1% trong giai đoạn 2016-2021. Bất chấp tác động của đại dịch đối với các doanh nghiệp và hộ gia đình, doanh thu CNTT được dự báo sẽ tăng trưởng ở mức 15% -16% vào năm 2021, cao hơn 2,5 lần so với GDP. Sáng kiến “Make in Vietnam” được kỳ vọng sẽ khuyến khích việc nghiên cứu và xuất khẩu các sản phẩm công nghệ cao.

(ii) Mở rộng cơ sở khách hàng trong thương mại điện tử. Quy mô thị trường thương mại điện tử ước tính đạt 13 tỷ USD, tương đương 3,4% GDP vào năm 2021, tăng trưởng với tốc độ hàng năm là 37,5%. Trong số các nước ASEAN, Việt Nam có tỷ lệ thâm nhập mua sắm trực tuyến cao nhất với 70,8% trong quý 3 năm 2021. Giá trị mua sắm trực tuyến trên mỗi khách hàng là 240 USD trong cùng kỳ, cao hơn 1,5 lần so với năm 2015. Khoảng 60% doanh nghiệp Việt Nam có phát triển các nền tảng kinh doanh trực tuyến trong nước và quốc tế business-to-customer và business-to-business. Doanh thu thương mại điện tử của Việt Nam được ước tính sẽ duy trì tốc độ tăng trưởng 30% vào năm 2021 và hơn thế nữa nhờ có một số lượng đáng kể người tiêu dùng kỹ thuật số mới (8 triệu hoặc 14% người tiêu dùng kỹ thuật số mới kể từ khi đại dịch bắt đầu, gần với mức trung bình của ASEAN 16% và trong đó 55% đến từ các khu vực ngoài thành phố lớn). Trong số những người tiêu dùng mới này, 99% có ý định tiếp tục mua sắm trực tuyến sau đại dịch.

(iii) Tăng cường áp dụng kỹ thuật số và các nền tảng trực tuyến. Theo WB, tỷ lệ các công ty sử dụng nền tảng kỹ thuật số, trang web thương mại điện tử, mạng xã hội trực tuyến và các ứng dụng chuyên biệt dành cho thiết bị di động tăng mạnh lên 73% vào tháng 1/2021 từ 48% vào tháng 6/2020 và số lượng công ty đầu tư vào kỹ thuật số các giải pháp tăng hơn bốn lần từ 5% lên 21% trong cùng thời kỳ. Các dấu hiệu của quá trình số hóa đang phát triển có thể được nhìn thấy trong tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế, từ các lĩnh vực hàng đầu như ICT, thương mại điện tử và fintech cho đến các lĩnh vực công nghệ mới nổi như y tế và giáo dục. Việt Nam có 2 trong số 12 công ty khởi nghiệp kỳ lân (unicorn start-up) của ASEAN (các công ty trị giá từ 1 tỷ USD trở lên) là VNG và VNPay - các công ty công nghệ với các dịch vụ và sản phẩm hỗ trợ nền tảng đa dạng như trò chơi trực tuyến, thương mại điện tử, dịch vụ tài chính kỹ thuật số, fintech, và các công nghệ mới khác. Các thị trường dựa trên nền tảng kỹ thuật số trong nước như Sendo và Tiki cạnh tranh với các đối thủ trong khu vực như Lazada và Shopee. Doanh thu từ truyền thông trực tuyến của Việt Nam vào năm 2020 là 1,3 tỷ đô la, gấp đôi so với năm 2016.

(iv) Sự bùng nổ của lĩnh vực fintech. Fintech đề cập đến những đổi mới trong các dịch vụ tài chính được thúc đẩy bởi công nghệ kỹ thuật số và số lượng công ty khởi nghiệp fintech tại Việt Nam đã tăng gấp 4 lần từ 39 lên 154 trong năm 2015- 2020, đặc biệt là trong lĩnh vực thanh toán, cho vay ngang hàng, blockchain, điểm bán hàng và quản lý tài sản. Quy mô thị trường fintech của Việt Nam ước tính đạt 8 tỷ USD vào năm 2020, gấp đôi so với năm 2017. Các tổ chức tài chính đã đẩy mạnh nỗ lực số hóa bằng cách hợp tác với các công ty fintech để hiện đại hóa hoạt động kinh doanh, thúc đẩy khả năng cạnh tranh và đóng góp vào các mục tiêu hòa nhập tài chính của Việt Nam.

(v) Cải thiện đáng kể trong an ninh mạng. Việt Nam đã tăng 50 bậc trong Chỉ số An ninh mạng Toàn cầu năm 2020 của Liên minh Viễn thông Quốc tế so với năm 2017, đứng thứ 25 trong số 194 quốc gia và đứng thứ tư trong ASEAN. Thứ hạng được cải thiện này đưa Việt Nam vào nhóm các quốc gia được coi là có cam kết cao đối với an toàn và an ninh mạng toàn cầu và khu vực. Việt Nam cũng được xếp thứ hai trong số các nước ít có các mối đe dọa nhất liên quan các phần mềm di động độc hại trong ASEAN.

Triển vọng cho nền kinh tế kỹ thuật số trong các chiến lược và lộ trình 10 năm tới

Chiến lược và lộ trình. Các mục tiêu chính cho nền kinh tế kỹ thuật số của Việt Nam đến năm 2025 và 2030 như được nêu trong Chiến lược quốc gia về chuyển đổi kỹ thuật số bao gồm: (i) mở rộng phạm vi phủ sóng 5G trên toàn quốc; (ii) tăng mức đóng góp của nền kinh tế kỹ thuật số vào GDP lên 20% vào năm 2025 và 30% vào năm 2030; (iii) lọt vào nhóm 30 quốc gia hàng đầu về Chỉ số Đổi mới toàn cầu, Chỉ số Phát triển CNTT-TT, Chỉ số Năng lực cạnh tranh toàn cầu và Chỉ số An ninh mạng toàn cầu, nhóm 50 quốc gia hàng đầu về Chỉ số Phát triển Chính phủ điện tử; và (iv) tăng năng suất lao động 8% /năm.

Cơ hội. Việt Nam đang có nhiều cơ hội để phát triển hơn nữa nền kinh tế kỹ thuật số, bao gồm (i) sự hỗ trợ của chính phủ, chiến lược rõ ràng và quyết tâm theo đuổi chuyển đổi số; (ii) sẵn có các nguồn lực như internet tốc độ cao giá cả phải chăng và dân số trẻ, hiểu biết về công nghệ; (iii) các chính sách và quy định kỹ thuật số xuyên suốt như chế độ hộp cát quy định và các chương trình hỗ trợ hiệu quả hơn cho các công ty khởi nghiệp; (iv) các ưu tiên khác nhau cho số hóa lĩnh vực CNTT-TT, thương mại điện tử, dịch vụ tài chính kỹ thuật số và thanh toán kỹ thuật số; và (v) khách hàng tài chính tiềm năng do còn có một lượng lớn dân số chưa tiếp cận các dịch vụ ngân hàng.

Những thách thức. Mặc dù đã đạt được những kết quả ấn tượng, nhưng vẫn còn nhiều trở ngại liên quan đến số hóa như: (i) mức độ nhận thức về chuyển đổi số và mức độ sẵn sàng cho số hóa thấp so với các thành viên ASEAN khác, (ii) khuôn khổ pháp lý chưa hoàn thiện và thiếu nhất quán, (iii) cơ sở hạ tầng kỹ thuật số chưa đầy đủ, (iv) thiếu kỹ năng kỹ thuật số (từ cơ bản đến nâng cao), (v) hệ sinh thái sáng tạo kém phát triển và (vi) rủi ro về quyền riêng tư và an ninh mạng phức tạp.

Vai trò của các bên liên quan chính. Chính phủ có vai trò quan trọng và trực tiếp trong việc thiết lập chính sách tổng thể và khuôn khổ pháp lý để quản lý và tạo điều kiện thuận lợi cho chuyển đổi kỹ thuật số. Bên cạnh đó, các bộ, cơ quan, địa phương liên quan phải phối hợp hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về số hóa, tạo môi trường thuận lợi cho đổi mới sáng tạo, hỗ trợ tài chính cho hoạt động số hóa và nuôi dưỡng khởi nghiệp, tận dụng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực số hóa. Trung tâm Đổi mới sáng tạo quốc gia đóng vai trò là động cơ chính thúc đẩy đổi mới sáng tạo và hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp và nền kinh tế số. Những người chơi chính khác là các công ty và tổ chức tài chính áp dụng và thương mại hóa các công nghệ mới.

Đóng góp của chuyển đổi kỹ thuật số vào GDP. Theo ADB, ba kịch bản khác nhau về cách nền kinh tế kỹ thuật số có thể đóng góp vào tăng trưởng GDP của Việt Nam trong thập kỷ tới có thể được đưa ra. Trong kịch bản đầu tiên, phân tích giả định rằng tác động lan tỏa của lĩnh vực CNTT sang các lĩnh vực kinh tế khác là tối thiểu và các hoạt động, sản phẩm và dịch vụ kinh tế ứng dụng kỹ thuật số tăng chậm lại. Sự chuyển đổi kỹ thuật số chậm chạp này tạo ra mức đóng góp thấp nhất của nền kinh tế kỹ thuật số vào tăng trưởng GDP, ở mức 0,38-0,4 điểm phần trăm vào năm 2025 và 0,53-0,60 điểm phần trăm vào năm 2030.

Trong kịch bản thứ hai, tăng trưởng kỹ thuật số mạnh mẽ hơn với giả định rằng khu vực CNTT mạnh sẽ tăng tốc đáng kể thúc đẩy quá trình chuyển đổi số của Việt Nam đối với tất cả các hoạt động kinh tế và xã hội; 4G và 5G được phủ song trên toàn quốc; tỷ lệ thâm nhập tài khoản smart-banking là 50% -55%. Trong kịch bản này, phân tích ước tính khu vực CNTTT đóng góp cao hơn vào tăng trưởng GDP từ 1,15-1,35 điểm phần trăm vào năm 2030.

Kịch bản thứ ba giả định mức độ cao nhất về phổ biến, ứng dụng và thích ứng công nghệ; 5G phủ song trên toàn quốc; tỷ lệ thâm nhập tài khoản smart-banking là hơn 80%. Khi đó, nền kinh tế kỹ thuật số phát triển này ước tính sẽ đóng góp 1,65-1,85 điểm phần trăm vào tăng trưởng GDP vào năm 2030. Ngoài ra, theo kịch bản này, phân tích kỳ vọng rằng tỷ lệ đầu tư cho nghiên cứu và phát triển trên GDP sẽ đạt mức trung bình của ASEAN là 1,8% -2,0% vào năm 2025-2030; năng suất lao động tăng 8,5% -10,0%/năm; số lượng doanh nghiệp công nghệ số đến năm 2030 đạt 100.000 doanh nghiệp; thanh toán điện tử và thương mại điện tử sẽ tăng với tốc độ tăng trưởng hàng năm là 35% - 40% trong giai đoạn 2021-2030.

Sự hợp tác chặt chẽ với tất cả các bên liên quan sẽ giúp Việt Nam hiện thực hóa những kết quả này. Nguồn lực từ khu vực tư nhân (các công ty khởi nghiệp công nghệ cao, quỹ đầu tư và các công ty đầu tư mạo hiểm); thị trường chứng khoán; đầu tư trực tiếp nước ngoài; và tài trợ từ các nhà tài trợ quốc tế như ADB và các đối tác phát triển khác, cũng rất quan trọng.

Các khuyến nghị để chuyển đổi số hơn nữa

Để giúp Việt Nam đạt được các mục tiêu trong Chiến lược quốc gia về chuyển đổi số và thu hẹp khoảng cách với các nền kinh tế số ASEAN khác, Việt Nam cần:

(i) Thành lập một Ủy ban quốc gia về chuyển đổi số để phối hợp tốt hơn các bên liên quan. Ủy ban nên do Thủ tướng Chính phủ làm chủ tịch với đại diện là lãnh đạo Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Công Thương, Văn phòng Chính phủ,… và có thể là một số lãnh đạo địa phương.

(ii) Xây dựng khung pháp lý hoàn chỉnh cho nền kinh tế kỹ thuật số bao gồm cơ chế sandbox cho fintech, cho vay P2P và các mô hình kinh doanh kỹ thuật số mới. Điều này sẽ liên quan đến việc sửa đổi Nghị định 52/2013/NĐ-CP về thương mại điện tử và sửa đổi Luật Thống kê để nắm bắt tốt hơn phạm vi và các thành phần của nền kinh tế số.

(iii) Tạo môi trường thuận lợi hơn cho các hoạt động đổi mới, sáng tạo. Điều này sẽ bao gồm việc mở rộng vai trò của Trung tâm Đổi mới sáng tạo quốc gia trong việc hỗ trợ đổi mới sáng tạo, hệ sinh thái khởi nghiệp và nền kinh tế kỹ thuật số; cung cấp thêm thông tin cho các công ty khởi nghiệp, doanh nghiệp vừa và nhỏ và quỹ đầu tư mạo hiểm; và tạo điều kiện thuận lợi cho việc tích hợp các công ty khởi nghiệp vào chuỗi cung ứng (tức là liên kết với các tập đoàn lớn và vừa và chuyển giao công nghệ).

(iv) Nâng cấp cơ sở hạ tầng kỹ thuật số. Điều này có thể đạt được bằng cách cải thiện chất lượng và tốc độ kết nối CNTT và internet, đặc biệt là ở các vùng nông thôn và vùng sâu vùng xa; mở rộng mạng di động 5G; tạo ra một nền tảng dữ liệu có thể được chia sẻ giữa các bên liên quan và các doanh nghiệp.

(v) Tăng cường kỹ năng kỹ thuật số và xây dựng lực lượng lao động có trình độ cao. Cần nhiều nguồn lực hơn nữa cho giáo dục và đào tạo (ví dụ: giáo dục và đào tạo kỹ thuật và dạy nghề, đào tạo CNTT tại chỗ, đào tạo tiếng Anh và kỹ năng mềm), phát triển nhân tài (ví dụ: các chương trình học bổng CNTT và thu hút các tài năng kỹ thuật số trên thế giới). Việt Nam cũng cần tích cực tham gia vào các sáng kiến và hợp tác quốc tế và khu vực để xây dựng một lực lượng laođộng có trình độ cao.

(vi) Thúc đẩy quyền riêng tư dữ liệu và an ninh mạng. Nghị định về Bảo vệ dữ liệu cá nhân cần sớm được ban hành. Hơn nữa, chính phủ nên xem xét việc thiết lập một tiêu chuẩn an ninh mạng và thị trường bảo hiểm rủi ro an ninh mạng cho cả khu vực công và tư nhân. Việt Nam cũng nên hợp tác với ASEAN để xây dựng một khuôn khổ quản lý dữ liệu nhằm cải thiện khả năng bảo vệ quyền riêng tư và tạo điều kiện thuận lợi cho các luồng dữ liệu kỹ thuật số xuyên biên giới và bản địa hóa dữ liệu.

(vii) Thúc đẩy tài chính kỹ thuật số. Điều này có thể đạt được bằng cách tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi hơn cho chuyển đổi tài chính kỹ thuật số, xây dựng chiến lược giáo dục tài chính toàn diện và sâu rộng cho đến năm 2030, cung cấp giáo dục về kiến thức và kỹ năng tài chính kỹ thuật số cho các cá nhân và doanh nghiệp, đồng thời thúc đẩy thanh toán kỹ thuật sốđể giảm thanh toán bằng tiền mặt và cải thiện bao gồm tài chính, đặc biệt là không có ngân hàng.

(viii) Thúc đẩy quan hệ đối tác công - tư trong chuyển đổi kỹ thuật số. Để tiến hành chuyển đổi kỹ thuật số quy mô lớn thành công và bền vững đòi hỏi sự hợp tác giữa các tổ chức công và tư, không chỉ về tài chính đầu tư mà còn hợp tác để áp dụng các công nghệ và dịch vụ mới. Sự hợp tác này sẽ yêu cầu một số biện pháp để xác định các lĩnh vực trách nhiệm của nhà nước và của các tổ chức tư nhân trong việc triển khai các chương trình kỹ thuật số nhà nước, cũng như xác lập người thụ hưởng cuối cùng của các mô hình quản lý kỹ thuật số. Do đó, một khuôn khổ pháp lý thuận lợi về quan hệ đối tác công - tư và lộ trình rõ ràng để thực hiện chiến lược quốc gia về chuyển đổi kỹ thuật số của quốc gia sẽ có tầm quan trọng hàng đầu.

Theo SBV

  • Bản tin Kinh tế - Tài chính - Tiền tệ tuần 3 tháng 6

    Bản tin Kinh tế - Tài chính - Tiền tệ tuần 3 tháng 6

    Chiến tranh Israel - Iran có khả năng tàn phá đối với nền kinh tế toàn cầu; Kinh tế Trung Quốc: Triển vọng kinh tế chưa sáng sủa; Tăng trưởng kinh tế Việt Nam sẽ chậm lại ở mức 6,2% trong năm 2025; Chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn đã được sửa đổi, bổ sung; Các tổ chức tín dụng kỳ vọng lạm phát giảm; Lượng tiền gửi của dân cư tăng 5,73% so với cuối năm 2024... Đây là những thông tin chính trong Bản tin Kinh tế - Tài chính - Tiền tệ tuần 3 tháng 6/2025.

  • Vietcombank Hưng Yên tổ chức hội thảo về rủi ro và kiểm soát năm 2025

    Vietcombank Hưng Yên tổ chức hội thảo về rủi ro và kiểm soát năm 2025

    Chiều 17/6/2025, Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam - Chi nhánh Hưng Yên (Vietcombank Hưng Yên) đã tổ chức Hội thảo tự đánh giá rủi ro và các chốt kiểm soát (RCSA) năm 2025 đối với 3 mảng nghiệp vụ trọng yếu: Ngân quỹ, Tài khoản và Thẻ, nhằm tăng cường hiệu quả công tác quản trị rủi ro trong hoạt động ngân hàng.

  • VAMC chào bán lần 7 khoản nợ xấu, khởi điểm hơn 508 tỷ đồng

    VAMC chào bán lần 7 khoản nợ xấu, khởi điểm hơn 508 tỷ đồng

    Công ty Quản lý Tài sản (VAMC) vừa có thông báo tổ chức bán đấu giá (lần 7) khoản nợ xấu của Công ty TNHH Du lịch Nam Biển Đông, với giá khởi điểm hơn 508 tỷ đồng.

  • PGBank bổ nhiệm Phó Tổng Giám đốc

    PGBank bổ nhiệm Phó Tổng Giám đốc

    Ông Phương Tiến Dũng sẽ đảm nhiệm vị trí Phó Tổng Giám đốc PGBank kiêm Giám đốc Khối Thẩm định và Phê duyệt từ ngày 20/6/2025.

  • Tín dụng toàn nền kinh tế 5 tháng đầu năm tăng trưởng 6,52%

    Tín dụng toàn nền kinh tế 5 tháng đầu năm tăng trưởng 6,52%

    Theo thông tin từ Ngân hàng Nhà nước, tính đến cuối tháng 5/2025, tín dụng toàn nền kinh tế tăng 6,52%, cao hơn đáng kể so với mức 2,41% cùng kỳ năm 2024. Đây là mức tăng tín dụng đáng kể nhằm đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế tối thiểu 8% trong năm nay.

  • Hoạt động nổi bật của hội viên khu vực phía Nam tuần từ 16/6 - 20/6/2025

    Hoạt động nổi bật của hội viên khu vực phía Nam tuần từ 16/6 - 20/6/2025

    Hoạt động nổi bật của hội viên khu vực phía Nam tuần từ 16/6 - 20/6/2025 với các thông tin chính sau: Ngân hàng ra mắt tính năng thanh toán và nhiều chương trình mới, ưu đãi hấp dẫn dành cho khách hàng; Tổ chức ĐHĐCĐ bất thường vào tháng 7; Các sự kiện tuyển dụng và đào tạo...

  • VRB hỗ trợ khách hàng sở hữu căn hộ tại Fresia Riverside

    VRB hỗ trợ khách hàng sở hữu căn hộ tại Fresia Riverside

    Nhằm hiện thực hóa giấc mơ an cư và đồng hành cùng khách hàng trên hành trình đầu tư bền vững, Ngân hàng Liên doanh Việt - Nga (VRB) chính thức triển khai chương trình ưu đãi vay mua nhà dành riêng cho khách hàng cá nhân có nhu cầu sở hữu căn hộ tại dự án Fresia Riverside, khu căn hộ cao cấp ven sông Đồng Nai, tọa lạc tại trung tâm thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

  • Zalopay hợp tác Danal và Shinhan Bank ra mắt dịch vụ thanh toán học phí quốc tế

    Zalopay hợp tác Danal và Shinhan Bank ra mắt dịch vụ thanh toán học phí quốc tế

    Công ty cổ phần ZION, đơn vị vận hành ứng dụng thanh toán Zalopay, vừa chính thức công bố hợp tác cùng hai đối tác tài chính - công nghệ hàng đầu Hàn Quốc là Danal và Shinhan.

  • Techcombank đồng hành chuyển đổi số cùng doanh nghiệp Cần Thơ

    Techcombank đồng hành chuyển đổi số cùng doanh nghiệp Cần Thơ

    Ngày 19/6/2025, tại Cần Thơ, Ngân hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam (Techcombank) phối hợp cùng Sở Khoa học và Công nghệ thành phố Cần Thơ tổ chức “Hội nghị Techcombank đồng hành cùng doanh nghiệp đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong kỷ nguyên vươn mình”

  • Nam A Bank ưu đãi khách hàng giao dịch không tiền mặt

    Nam A Bank ưu đãi khách hàng giao dịch không tiền mặt

    Nhằm khuyến khích thanh toán không dùng tiền mặt trong mùa cao điểm mua sắm và du lịch, Ngân hàng TMCP Nam Á (Nam A Bank) vừa chính thức triển khai loạt chương trình ưu đãi dành cho khách hàng cá nhân, mang đến trải nghiệm tài chính hiện đại, thuận tiện và nhiều giá trị gia tăng.

Tính lãi tiền gửi
VNĐ
%/year
month
Tính lãi tiền gửi

Tính toán khoản vay
VNĐ
%/year
month
Tính toán khoản vay