Chủ nhật, 24/11/2024
   

Tiếp tục điều hành chủ động, linh hoạt, đồng bộ các công cụ chính sách tiền tệ, phối hợp chặt chẽ chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô

Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) Nguyễn Thị Hồng vừa có văn bản gửi Quốc hội về việc chuẩn bị báo cáo giải trình và trả lời chất vấn tại Kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XV với nhiều nhóm nội dung lĩnh vực quản lý của Ngành được đại biểu Quốc hội quan tâm.

Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) Nguyễn Thị Hồng vừa có văn bản gửi Quốc hội về việc chuẩn bị báo cáo giải trình và trả lời chất vấn tại Kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XV với nhiều nhóm nội dung lĩnh vực quản lý của Ngành được đại biểu Quốc hội quan tâm.

Tích cực phối hợp,triển khai nhanh chóng, hiệu quả các chính sách cho vay theo Nghị định 31/2022/NĐ-CP

NHNN cho biết, ngay sau khi Nghị quyết 43/2022/QH15 về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội được Quốc hội ban hành, NHNN và hệ thống tổ chức tín dụng (TCTD) đã sớm vào cuộc, triển khai quyết liệt, kịp thời. Kết quả cho thấy, kinh tế tăng trưởng trở lại, GDP quý I/2022 tăng 5,03% so cùng kỳ năm 2021. 5 tháng đầu năm 2022, mặc dù lạm phát và giá cả hàng hóa thế giới liên tục leo thang, lạm phát trong nước tiếp tục được kiểm soát với CPI bình quân tăng ở mức 2,25%, phù hợp với mục tiêu lạm phát.

Tiếp tục cho vay tái cấp vốn Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) để cho người sử dụng lao động vay trả lương ngừng việc và trả lương phục hồi sản xuất. Đến 31/3/2022 (thời điểm dừng giải ngân tái cấp vốn theo quy định), NHNN đã giải ngân cho NHCSXH tổng số tiền 4.787 tỷ đồng.

Tiếp tục thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi vay và giữ nguyên nhóm nợ đối với khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 theo Thông tư số 01/2020/TT-NHNN (đã sửa đổi, bổ sung). Đến 30/4/2022, lũy kế giá trị nợ đã cơ cấu từ khi ban hành Thông tư đạt hơn 695 nghìn tỷ đồng. Tiếp tục theo dõi sát tình hình, diễn biến của dịch bệnh để có giải pháp phù hợp nhằm tạo điều kiện, hỗ trợ doanh nghiệp, người dân, đồng thời đảm bảo an toàn hệ thống TCTD.

Phối hợp chặt chẽ giữa chính sách tiền tệ (CSTT), tài khóa và chính sách quản lý giá thông qua các cuộc họp Ban chỉ đạo điều hành giá, trao đổi các thông tin về thị trường tiền tệ, tài chính để tăng cường sự phối hợp giữa các chính sách, theo dõi sát biến động thị trường để truyền thông chính sách, tạo lòng tin và nâng cao hiệu quả thực thi chính sách, ổn định thị trường.

Nhận định những khó khăn, thách thức thời gian tới, NHNN cho rằng áp lực lạm phát ngày càng tăng do lạm phát các nước trên thế giới tăng cao trong khi độ mở nền kinh tế Việt Nam rất lớn, rủi ro nhập khẩu lạm phát. Giá cả thế giới tăng cao trong khi sản xuất trong nước phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu hàng hóa, nguyên vật liệu từ nước ngoài khiến chi phí sản xuất tăng trong năm 2021 và tiếp tục tăng cao hơn trong 5 tháng đầu năm 2022, gây áp lực lạm phát.

Khả năng giảm lãi suất của hệ thống ngân hàng gặp nhiều khó khăn do lạm phát chịu áp lực tăng cao, xu hướng các ngân hàng trung ương lớn trên thế giới đẩy nhanh tiến trình thu hẹp nới lỏng CSTT, tăng nhanh tần suất và mức lãi suất để kiểm soát lạm phát. Nợ xấu tiềm ẩn tăng cao, thị trường chứng khoán, bất động sản, trái phiếu biến động mạnh ảnh hưởng tới hoạt động của doanh nghiệp và xu hướng đầu tư, theo đó tác động tới hoạt động ngân hàng.

Bám sát chủ trương của Quốc hội và Chính phủ, NHNN tiếp tục điều hành chủ động, linh hoạt, đồng bộ các công cụ CSTT, phối hợp chặt chẽ chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ phục hồi, phát triển kinh tế, thích ứng kịp thời với diễn biến thị trường trong và ngoài nước.

Tiếp tục theo dõi sát diễn biến tiền tệ trong nước, quốc tế, dự báo lạm phát và lãi suất thị trường để điều hành lãi suất phù hợp với diễn biến cân đối vĩ mô, lạm phát và mục tiêu CSTT.

Tích cực phối hợp với các bộ, ngành, địa phương trong tổ chức triển khai nhanh chóng, hiệu quả các chính sách cho vay theo Nghị định 31/2022/NĐ-CP; Thường xuyên chủ động rà soát các khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện các chính sách để có biện pháp xử lý hoặc báo cáo các cơ quan có thẩm quyền tháo gỡ.

Tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, đảm bảo an toàn hoạt động hệ thống các TCTD.

Tiếp tục chỉ đạo TCTD: Tăng trưởng tín dụng hiệu quả, tập trung vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ; tạo điều kiện tiếp cận vốn cho doanh nghiệp, người dân, đơn giản hóa các thủ tục vay vốn;Tiếp tục tháo gỡ khó khăn về tín dụng, lãi suất đối với doanh nghiệp và người dân; Tiết giảm chi phí để giảm lãi suất cho vay, giảm phí đối với doanh nghiệp và người dân, đồng thời thực hiện nghiêm và thường xuyên giám sát, kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về lãi suất, phí cho vay.

Theo dõi, giám sát các khoản nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ theo Thông tư số 01/2020/TT-NHNN (đã sửa đổi, bổ sung), đảm bảo lộ trình trích lập dự phòng rủi ro theo Thông tư số 03/2021/TT-NHNN.

Ưu tiên triển khai tích cực các nhóm giải pháp nêu tại Đề án Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021-2025 sau khi được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

Cơ cấu lại các TCTD gắn với xử lý nợ xấu đạt kết quả tích cực

Liên quan đến việc thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về cơ cấu lại các TCTD, xử lý các NHTM yếu kém gắn với xử lý nợ xấu, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết, sau 4 năm thực hiện, các mục tiêu tại Đề án Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020 (ban hành theo Quyết định 1058/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ - Đề án 1058) cơ bản đạt được: quy mô hệ thống các TCTD tiếp tục tăng; năng lực tài chính, chất lượng quản trị, điều hành tiếp tục được củng cố, nâng cao; năng lực quản trị rủi ro được cải thiện, từng bước hình thành đồng bộ các chuẩn mực, thiết chế an toàn phù hợp với thông lệ quốc tế và điều kiện thực tiễn của Việt Nam.

Qua cơ cấu lại, các NHTM nhà nước tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong hệ thống các TCTD tích cực tham gia hỗ trợ, xử lý các TCTD yếu kém và dành nguồn lực để hỗ trợ giảm lãi suất cho khách hàng vay gặp khó khăn do dịch COVID-19.

Số liệu thống kê cho thấy, đến cuối tháng 3/2022, vốn điều lệ của các NHTM nhà nước (Agribank, Vietcombank, VietinBank, BIDV) đạt 170 nghìn tỷ đồng, không thay đổi so với cuối năm 2021; tổng tài sản đạt 6.719,44 nghìn tỷ đồng, tăng 5,17% so với cuối năm 2021; vốn huy động thị trường 1 đạt 5.625,25 nghìn tỷ đồng, tăng 2,9% so với cuối năm 2021.

Để nâng cao năng lực tài chính cho các NHTM nhà nước, Thống đốc cho biết, NHNN đang phối hợp các bộ, ngành liên quan xem xét, trình cấp thẩm quyền phê duyệt phương án tăng vốn điều lệ từ nguồn lợi nhuận sau thuế, sau trích lập các quỹ giai đoạn 2021-2023 cho các NHTM cổ phần do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ và từ nguồn ngân sách nhà nước đối với Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn.

Đối với các NHTM cổ phần, Thống đốc cho biết, hoạt động cơ cấu lại về cơ bản đều bám sát phương án được duyệt, tập trung củng cố, chấn chỉnh toàn diện các mặt tài chính, quản trị, xử lý nợ xấu, tăng cường các biện pháp kiểm soát nhằm nâng cao chất lượng tín dụng, hiệu quả kinh doanh và năng lực cạnh tranh, tăng cường tính minh bạch trong hoạt động.

Tính đến cuối tháng 3/2022, vốn điều lệ của các NHTM cổ phần đạt 400,23 nghìn tỷ đồng, tăng 1,69% so với cuối năm 2021; tổng tài sản đạt 7.372,5 nghìn tỷ đồng, tăng 3,08% so với cuối năm 2021; vốn huy động thị trường 1 đạt 215.396,9 nghìn tỷ đồng, tăng 3,9% so với cuối năm 2021.

Trên cơ sở tổng kết Đề án 1058, thực hiện Nghị quyết số 31/2021/QH15 về kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết, NHNN đã xây dựng và đang trình cấp có thẩm quyền phê duyệt Đề án Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021-2025.

Đối với vấn đề xử lý nợ xấu, Thống đốc NHNN cho biết, trong quá trình triển khai cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu, các TCTD đã tích cực nâng cao chất lượng tài sản, kiểm soát chất lượng tín dụng và xử lý nợ xấu, đặc biệt là nỗ lực tự xử lý nợ xấu bằng các biện pháp đôn đốc thu hồi nợ, sử dụng dự phòng rủi ro. Từ năm 2021 đến nay, toàn hệ thống các TCTD đã xử lý được 216,7 nghìn tỷ đồng nợ xấu. Trong 4 tháng đầu 2022, tổng số dư nợ xấu được xử lý đạt 54,8 nghìn tỷ đồng, phần lớn là khách hàng trả nợ (23,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 43,0% tổng nợ xấu được xử lý); sử dụng dự phòng rủi ro (14,2 nghìn tỷ đồng, 25,9%) và bán nợ cho VAMC (11,4 nghìn tỷ đồng, 20,9%).

Lũy kế từ ngày 15/8/2017 đến ngày 31/12/2021, toàn hệ thống TCTD đã xử lý được 380,2 nghìn tỷ đồng nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 42, đạt trung bình khoảng 5,67 nghìn tỷ đồng/tháng, cao hơn nhiều so với kết quả xử lý nợ xấu tại thời điểm trước khi Nghị quyết số 42 có hiệu lực (trung bình giai đoạn 2012 - 2017, hệ thống các TCTD xử lý được khoảng 3,25 nghìn tỷ đồng/tháng); xử lý nợ xấu nội bảng xác định theo Nghị quyết số 42 chủ yếu thông qua hình thức khách hàng trả nợ là 148 nghìn tỷ đồng, chiếm 38,9% tổng nợ xấu theo Nghị quyết số 42 đã xử lý (trung bình giai đoạn 2012-2017 chỉ khoảng 22,8%). Trong đó, riêng năm 2021, đã xử lý được 48,3 nghìn tỷ đồng.

Dù đạt được những kết quả tích cực trong quá trình xử lý nợ xấu, tuy nhiên với những tác động tiêu cực từ đại dịch COVID-19, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết, nguy cơ nợ xấu tăng cao do ảnh hưởng của dịch bệnh; doanh nghiệp bị sụt giảm doanh thu, mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn. Cùng với đó là việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí và giữ nguyên nhóm nợ trước mắt là hết sức cần thiết nhằm giải quyết khó khăn cho doanh nghiệp và người dân nhưng cũng tiềm ẩn rủi ro nợ xấu gia tăng và rủi ro thanh khoản trong trung hạn…

Việc phát mại tài sản để xử lý nợ xấu của các TCTD gặp nhiều khó khăn do thị trường thanh lý tài sản đảm bảo bị ảnh hưởng bởi nền kinh tế chưa phục hồi sau đại dịch. “Có những khách hàng lợi dụng bối cảnh dịch bệnh để trì hoãn trả nợ, giao tài sản đảm bảo cho các TCTD khiến tiến trình xử lý nợ xấu, xử lý tài sản bảo đảm càng gặp nhiều khó khăn”, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết thêm.

Để chủ động và giảm áp lực nợ xấu trong thời gian tới, Thống đốc NHNN cho biết, sẽ tiếp tục chỉ đạo các TCTD đẩy mạnh công tác xử lý nợ xấu, thực hiện quyết liệt các biện pháp để thu hồi nợ, sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro; nâng cao chất lượng tín dụng, ngăn ngừa, hạn chế tối đa nợ xấu mới phát sinh; phối hợp với các Bộ, ngành liên quan để tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về xử lý nợ xấu, tạo cơ sở để đẩy mạnh công tác xử lý nợ xấu hiệu quả; phối hợp với các bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện quy định tại Nghị quyết 42 trên thực tế sau khi được Quốc hội thông qua gia hạn thời gian áp dụng Nghị quyết.

Đối với việc triển khai Đề án cơ cấu lại các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021-2025, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết, NHNN sẽ: tập trung thực hiện phương án cơ cấu lại; khắc phục những hạn chế, phấn đấu xử lý cơ bản các khó khăn, tồn tại của ngân hàng yếu kém, xây dựng hệ thống các TCTD lành mạnh và phát triển bền vững; nâng cao năng lực tài chính của TCTD; ngăn ngừa tình trạng đầu tư chéo, sở hữu chéo và sở hữu có tính chất thao túng, chi phối trong các TCTD có liên quan; tăng cường công tác thanh tra, giám sát hoạt động của TCTD, đặc biệt là tập trung thanh tra chuyên đề đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro cao; tiếp tục triển khai quy trình thủ tục để thực hiện tăng vốn điều lệ từ nguồn lợi nhuận sau thuế, sau trích lập các quỹ giai đoạn 2021-2023 cho các NHTM cổ phần do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ và từ nguồn ngân sách nhà nước đối với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam.

Đề án sẽ hướng đến việc phát triển hệ thống các TCTD theo hướng các TCTD trong nước đóng vai trò chủ lực, hoạt động lành mạnh, chất lượng, hiệu quả, công khai, minh bạch, đáp ứng các chuẩn mực về an toàn hoạt động ngân hàng theo quy định của pháp luật và tiệm cận với thông lệ quốc tế, hướng tới đạt trình độ phát triển của Nhóm 4 nước dẫn đầu khu vực ASEAN.

Đẩy mạnh xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng

NHNN cho biết, trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 ảnh hưởng tới mọi mặt đời sống KTXH, để tăng cường công tác kiểm soát và xử lý nợ xấu, NHNN đã tổ chức làm việc với các TCTD về kế hoạch xử lý nợ xấu giai đoạn 2021-2022. Theo đó, chỉ đạo các TCTD thực hiện một số giải pháp chính như tăng cường kiểm soát, xử lý nợ xấu và hạn chế tối đa nợ xấu mới phát sinh; khuyến khích TCTD trả cổ tức bằng cổ phiếu, hạn chế thực hiện chia cổ tức bằng tiền mặt để nâng cao năng lực tài chính và khả năng chống đỡ trước ảnh hưởng tiêu cực của dịch bệnh; khuyến khích trích lập tối đa số tiền dự phòng cụ thể đối với dư nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ, miễn, giảm lãi, phí theo quy định tại Thông tư 01/2020/TT-NHNN...

Trong quá trình triển khai cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu, các TCTD đã tích cực nâng cao chất lượng tài sản, kiểm soát chất lượng tín dụng và xử lý nợ xấu, đặc biệt là nỗ lực tự xử lý nợ xấu bằng các biện pháp đôn đốc thu hồi nợ, sử dụng dự phòng rủi ro. Từ năm 2021 đến nay, toàn hệ thống các TCTD đã xử lý được 216,7 nghìn tỷ đồng nợ xấu. Trong 4 tháng đầu 2022, tổng số dư nợ xấu được xử lý đạt 54,8 nghìn tỷ đồng, phần lớn là khách hàng trả nợ (23,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 43,0% tổng nợ xấu được xử lý); sử dụng dự phòng rủi ro (14,2 nghìn tỷ đồng, 25,9%) và bán nợ cho VAMC (11,4 nghìn tỷ đồng, 20,9%).

Liên quan đến công tác xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42, lũy kế từ 15/8/2017 đến 31/12/2021, toàn hệ thống TCTD đã xử lý được 380,2 nghìn tỷ đồng nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 42, đạt trung bình khoảng 5,67 nghìn tỷ đồng/tháng, cao hơn nhiều so với kết quả xử lý nợ xấu tại thời điểm trước khi Nghị quyết số 42 có hiệu lực (trung bình từ năm 2012-2017, hệ thống các TCTD xử lý được khoảng 3,25 nghìn tỷ đồng/tháng); xử lý nợ xấu nội bảng xác định theo Nghị quyết số 42 chủ yếu thông qua hình thức khách hàng trả nợ là 148 nghìn tỷ đồng, chiếm 38,9% tổng nợ xấu theo Nghị quyết số 42 đã xử lý (trung bình từ 2012-2017 chỉ khoảng 22,8%). Trong đó, riêng năm 2021, đã xử lý được 48,3 nghìn tỷ đồng.

NHNN cũng cho biết, nguy cơ nợ xấu tăng cao do ảnh hưởng của dịch bệnh; doanh nghiệp bị sụt giảm doanh thu, mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn. Việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí và giữ nguyên nhóm nợ trước mắt là hết sức cần thiết nhằm giải quyết khó khăn cho doanh nghiệp và người dân nhưng cũng tiềm ẩn rủi ro nợ xấu gia tăng và rủi ro thanh khoản trong trung hạn. Việc cung ứng vốn cho nền kinh tế, đặc biệt vốn trung, dài hạn vẫn chủ yếu dựa vào hệ thống ngân hàng trong khi nguồn vốn ngân hàng chủ yếu là ngắn hạn, làm gia tăng rủi ro kỳ hạn, rủi ro thanh khoản cho hệ thống TCTD.

Việc bán, phát mại tài sản để xử lý nợ xấu của các TCTD gặp nhiều khó khăn do thị trường thanh lý tài sản đảm bảo bị ảnh hưởng bởi nền kinh tế chưa phục hồi sau đại dịch. Bên cạnh đó, có những khách hàng lợi dụng bối cảnh dịch bệnh để trì hoãn trả nợ, giao tài sản đảm bảo cho các TCTD khiến tiến trình xử lý nợ xấu, xử lý tài sản bảo đảm càng gặp nhiều khó khăn.

Định hướng trong thời gian tới, NHNN sẽ tiếp tục chỉ đạo các TCTD đẩy mạnh công tác xử lý nợ xấu, thực hiện quyết liệt các biện pháp để thu hồi nợ, sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro; nâng cao chất lượng tín dụng, ngăn ngừa, hạn chế tối đa nợ xấu mới phát sinh. Phối hợp với các bộ, ngành liên quan để tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về xử lý nợ xấu, tạo cơ sở để đẩy mạnh công tác xử lý nợ xấu hiệu quả.

NHNN cũng sẽ phối hợp với các bộ, ngành, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện quy định tại Nghị quyết 42 trên thực tế sau khi được Quốc hội thông qua gia hạn thời gian áp dụng Nghị quyết.

Góp phần hạn chế đẩy lùi “tín dụng đen”

Thực hiện vai trò là cơ quan phối hợp trong công tác phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm và vi phạm pháp luật có liên quan đến hoạt động “tín dụng đen”, thực hiện Chỉ thị 12/CT-TTg ngày 25/4/2019 của Thủ tướng Chính phủ, NHNN (là cơ quan quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng) đã ban hành Kế hoạch hành động và chủ động triển khai các giải pháp nhằm tăng cường khả năng tiếp cận tín dụng chính thức và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người dân, doanh nghiệp khi vay vốn TCTD, qua đó góp phần hạn chế, đẩy lùi “tín dụng đen. Cụ thể:

Hoàn thiện khung khổ pháp lý về hoạt động cho vay, đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ, phát triển các dịch vụ trực tuyến.

Điều hành tín dụng gắn với nâng cao chất lượng tín dụng, phù hợp với khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu vốn cho doanh nghiệp và người dân. Chỉ đạo các TCTD thực hiện các giải pháp tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong tiếp cận vốn tín dụng; triển khai mạnh mẽ, sâu rộng chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp nhằm tháo gỡ kịp thời các khó khăn, vướng mắc trong tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng; đa dạng sản phẩm dịch vụ ngân hàng, đơn giản hóa thủ tục cho vay, niêm yết công khai, minh bạch các thủ tục, quy trình vay vốn; nâng cao hiệu quả thẩm định và đánh giá mức độ tín nhiệm khách hàng để tăng cường cho vay không có bảo đảm bằng tài sản;...

Đến ngày 31/5/2022, tín dụng tăng 8,04% so với cuối năm 2021. Trong đó, dư nợ cho vay lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn (là nơi dễ phát sinh hoạt động “tín dụng đen”) đạt gần 2,8 triệu tỷ đồng với hơn 14 triệu khách hàng, chiếm gần 25% tổng dư nợ tín dụng nền kinh tế. Các TCTD cũng đẩy mạnh cho vay phục vụ nhu cầu đời sống, cho vay tiêu dùng với dư nợ đạt trên 2,26 triệu tỷ đồng, chiếm trên 20% dư nợ nền kinh tế.

Tạo điều kiện phát triển mạng lưới nhằm gia tăng khả năng tiếp cận đến người dân, đáp ứng nhu cầu vay vốn chính đáng, hợp pháp của nhân dân. Đến nay, toàn hệ thống đã có 124 TCTD và gần 1.200 Quỹ TDND; 16 công ty tài chính được cấp phép hoạt động với 17 chi nhánh, 41 văn phòng đại diện và 74.337 điểm giới thiệu dịch vụ trên toàn quốc; 04 tổ chức tài chính vi mô được cấp phép hoạt động với 64 chi nhánh và 59 phòng giao dịch thuộc 24 tỉnh, thành phố.

Đối với các đối tượng chính sách, người nghèo, người không có tài sản bảo đảm, người lao động có thu nhập thấp: NHCSXH đang triển khai nhiều chương trình tín dụng chính sách để đáp ứng nhu cầu vốn sản xuất kinh doanh, tiêu dùng chính đáng với lãi suất ưu đãi và không cần tài sản bảo đảm . Bên cạnh đó, người nghèo, người không có tài sản bảo đảm, người lao động thu nhập thấp, không thể chứng minh được tài sản bảo đảm còn có thể tiếp cận các khoản vay của công ty tài chính tiêu dùng , tổ chức tài chính vi mô , quỹ tín dụng nhân dân.

Tăng cường hoạt động truyền thông về cơ chế, chính sách cho vay, dịch vụ ngân hàng đến đông đảo người dân; cảnh báo các hệ lụy để người dân phòng, tránh “tín dụng đen”; xây dựng các chương trình truyền hình về giáo dục tài chính giúp người dân có đầy đủ kiến thức cần thiết, dễ dàng tiếp cận các dịch vụ tài chính ngân hàng chính thức.

Bên cạnh các nội dung trên, Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng cũng giải trình, làm rõ thêm một số nội dung liên quan đến việc quản lý, kiểm soát tín dụng trong lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, nhất là cho vay chứng khoán, phát hành TPDN và BĐS; tội phạm công nghệ cao trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng.

Theo SBV

Tính lãi tiền gửi
VNĐ
%/year
month
Tính lãi tiền gửi

Tính toán khoản vay
VNĐ
%/year
month
Tính toán khoản vay