Cập nhật kết quả kinh doanh năm 2022 của một số ngân hàng hội viên Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (VNBA) cho thấy, nhìn chung, kết quả kinh doanh đều ấn tượng, tỷ lệ nợ xấu giảm, nhiều hội viên hoàn thành vượt chỉ tiêu kế hoạch.
- Coopbank: Tính đến 31/12/2022 tổng nguồn vốn hoạt động của Co-opbank là 49.799 tỷ đồng, tăng 1,33% so với 31/12/2021; tổng dư nợ cho vay là 31.185 tỷ đồng, tăng 4.987 tỷ đồng (tỷ lệ tăng 19,04%) so với 31/12/2021; lợi nhuận đạt 102,96% kế hoạch.
Co-opBank cơ bản hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch kinh doanh, kế hoạch tài chính NHNN giao. Huy động tiền gửi dân cư và tổ chức kinh tế tăng trên 35%, cao nhất từ trước tới nay. Dư nợ tín dụng tăng 19,04%, lãi suất cho vay ổn định; lãi suất cho vay đối với QTDND thấp hơn lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp và cá nhân,....Tỷ lệ nợ xấu luôn được duy trì ở mức thấp.
Việc triển khai hoạt động chuyển đổi số theo Kế hoạch chuyển đổi số ngành ngân hàng tích cực trong năm 2022 đã góp phần nâng cao hiệu quả quản lý điều hành kinh doanh trên toàn hệ thống theo hướng hiện đại, từng bước đưa các sản phẩm dịch vụ mới, tiện ích đến với khách hàng, nhất là khách hàng ở nông thôn, vùng sâu vùng xa, như: ứng dụng Co-opBank Mobile, triển khai thanh toán chuyển tiền 24/7, thanh toán hóa đơn định kỳ, kết nối BC-Card chấp nhận thanh toán thẻ Co-opBank Napas tại Hàn Quốc… Năm 2022, số tài khoản thanh toán của khách hàng tăng 160%, góp phần thực hiện mục tiêu tài chính toàn diện và thanh toán không dùng tiền mặt theo chủ trương của Chính phủ.
- BIDV: đến hết 31/12/2022, các chỉ tiêu kinh doanh của BIDV đều đạt kế hoạch NHNN và Đại hội đồng cổ đông giao. Trong đó, lợi nhuận trước thuế khối ngân hàng thương mại đạt 22.560 tỷ đồng; Lợi nhuận trước thuế hợp nhất đạt 23.190 tỷ đồng. Tổng tài sản ngân hàng đến cuối năm trước ước đạt hơn 2,08 triệu tỷ đồng, tăng trưởng gần 21% so với năm 2021; là NHTM đầu tiên vượt mốc này, tiếp tục giữ vững vị thế là Ngân hàng TMCP có quy mô tổng tài sản lớn nhất tại Việt Nam.
Tổng nguồn vốn huy động đạt 1,95 triệu tỷ đồng, tăng 21,1% so với đầu năm; trong đó huy động vốn tổ chức, dân cư đạt 1,62 triệu tỷ đồng, tăng 8,8% so với đầu năm và chiếm gần 13,6% thị phần tiền gửi toàn ngành ngân hàng.Tổng dư nợ tín dụng và đầu tư đạt 1,96 triệu tỷ đồng, tăng 19% so với đầu năm; trong đó dư nợ tín dụng đạt 1,5 triệu tỷ đồng, tăng 12,65% so với đầu năm, cao hơn mức thực hiện năm 2021 (11,8%), đảm bảo giới hạn NHNN giao (12,7%), đứng đầu thị trường về thị phần tín dụng (chiếm khoảng 12,5%). Các chỉ tiêu sinh lời, chỉ tiêu an toàn hoạt động của hệ thống được đảm bảo, ROA đạt 0,95%; ROE đạt 20,2%, hoàn thành vượt kế hoạch đề ra; Hệ số an toàn vốn (CAR) đạt 8,76%, đảm bảo tuân thủ quy định tại Thông tư 41/2016/ TT-NHNN.
- Vietcombank: Kết thúc năm 2022, huy động vốn thị trường I của ngân hàng đạt ~1,26 triệu tỷđồng, tăng 9,1% so với năm 2021, đạt 100% kế hoạch năm 2022. Tỷ trọng huy động vốn không kỳ hạn (CASA) bình quân đạt34%, tăng 1,8 điểm % so với 2021 (tương đương khoảng 428 nghìn tỷ đồng - quán quân về CASA trong hệ thống). Huy động vốn bán buôn tăng trưởng 10,4%; huy động vốn bán lẻ tăng trưởng ở mức 8,0% so với năm 2021. Tín dụng tăng trưởng vượt mốc 1,15 triệu tỷ đồng, tăng 19% so với cuối năm 2021, kiểm soát trong tỷ lệ tăng trưởng được NHNN giao. Tín dụng bán buôn tăng trưởng 18,5%; Tín dụng bán lẻ tăng trưởng ở mức 19,4% so với năm 2021.
Chất lượng tín dụng được kiểm soát tốt. Dư nợ nhóm 2 là 3.289 tỷ đồng, tỷ lệ nợ nhóm 2 ở mức 0,29%, giảm 0,08 điểm % so với 2021 (0,36%). Tổng dư nợ xấu là 7.662 tỷ đồng với tỷ lệ nợ xấu ở mức 0,67%, thấp hơn đáng kể so với kế hoạch được giao. Dư quỹ dự phòng rủi ro là 35.603 tỷ đồng; Tỉ lệ dự phòng bao nợ xấu nội bảng đạt mức cao nhất hệ thống ngân hàng (khoảng 465%). Các chỉ tiêu doanh số của Vietcombank đều tăng trưởng ấn tượng. Trong đó Doanh số TTQT-TTTM đạt khoảng 135 tỷ USD, tăng 31,8% so với 2021; Thị phần đạt mức 18,5%, tăng 3,11 điểm % so với năm 2021. Doanh số mua bán ngoại tệ đạt khoảng 73 tỷ USD, tăng 20,4% so với 2021. Các chỉ tiêu doanh số thẻ, bảo hiểm, phát triển khách hàng bán buôn-bán lẻ đều đạt kết quả tăng trưởng ấn tượng từ mức 37% đến 100%.
Hiệu quả kinh doanh của ngân hàng tăng trưởng bền vững. Thu nhập ngoài lãi tăng 9,2% so với năm 2021, hoàn thành 108,7% kế hoạch năm 2022; Thu thuần kinh doanh ngoại tệ tăng trưởng 31,7% so với năm 2021, hoàn thành 124% kế hoạch năm 2022; Thu hồi nợ ngoại bảng đạt 2.393 tỷ đồng, hoàn thành khoảng 80% kế hoạch năm 2022. Lợi nhuận trước thuế riêng lẻ của ngân hàng tăng 39% so với năm 2021 và đạt 119% kế hoạch năm 2022. NIM đạt 3,51%, tăng 0,24 điểm % so với 2021. Chỉ số ROAA và ROAE duy trì ở mức cao, tương ứng là 1,84% và 24,25%.
- VietinBank: năm 2022, ngân hàng đã hoàn thành các chỉ tiêu được Đại hội đồng cổ đông thông qua. Lãi thuần từ hoạt động dịch vụ năm 2022 tăng 22,8% so với năm trước do VietinBank đã triển khai các giải pháp đồng bộ thúc đẩy công tác bán đi đôi với nâng cao chất lượng dịch vụ. Tỷ lệ nợ xấu ở mức thấp là 1,24% so với thời điểm đầu năm là 1,26%. Năm 2022, dư nợ tín dụng của VietinBank đạt 1.280 nghìn tỷ đồng, tăng 12,1% so với năm 2021, đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh hồi phục sau dịch, phù hợp với diễn biến chung toàn Ngành Ngân hàng và room tín dụng của NHNN.
- TPBank: lợi nhuận trước thuế năm 2022 ước đạt 7.828 tỷ đồng, tương đương tăng khoảng 30% so với năm 2021. Mức lợi nhuận này còn đến từ việc gia tăng dịch vụ bảo lãnh và tài trợ thương mại để tăng thu nhập từ phí. Ngoài ra, sự phục hồi tích cực của các khách hàng được giãn nợ trong thời kỳ dịch bệnh cũng góp phần gia tăng nguồn thu của ngân hàng. Trích lập dự phòng rủi ro cũng thấp hơn các năm trước. Tổng tài sản của ngân hàng ghi nhận tăng hơn 12% so với cùng kỳ năm trước, cán mốc gần 329 nghìn tỷ đồng. Tổng thu nhập hoạt động của TPBank trong năm nay đạt trên 15.600 tỷ đồng, tăng hơn 15,5% so với năm 2021. Lãi thuần từ dịch vụ đạt khoảng 2.700 tỷ đồng, tăng gần 75% so với cùng kỳ.
Theo kế hoạch đã được Đại hội đồng cổ đông thông qua, TPBank đặt mục tiêu lợi nhuận trước thuế năm 2022 tăng 36%, đạt 8.200 tỷ đồng. Như vậy, dù tăng trường khá tốt song ngân hàng này vẫn chưa đạt mức lợi nhuận đề ra trong năm 2022.
- VIB: Kết thúc năm 2022, VIB đạt kết quả lợi nhuận trước thuế hơn 10.580 tỷ đồng, tăng trưởng 32% so với năm trước, tổng doanh thu tăng trưởng 21%, tiếp tục cao hơn tỷ lệ tăng trưởng chi phí hoạt động 17%, góp phần giảm tỷ lệ chi phí hoạt động trên doanh thu (CIR) của VIB xuống còn 34%, thuộc nhóm ngân hàng bán lẻ có hiệu quả quản trị chi phí tốt nhất.
Đến 31/12/2022, tổng tài sản của VIB đạt hơn 343 nghìn tỷ đồng. Trong đó, dư nợ tín dụng đạt 234 nghìn tỷ đồng, tăng trưởng 14,5%, riêng tiền gửi huy động từ khách hàng tăng trưởng hơn 15,3% đến từ việc gia tăng mạnh mẽ cơ sở khách hàng bán lẻ chất lượng. Biên lãi ròng (NIM) đạt mức 4,5% nhờ chiến lược tập trung vào bán lẻ và nguồn vốn huy động trung dài hạn chất lượng, đồng thời duy trì tính ổn định của thanh khoản và lãi suất trong bối cảnh thị trường có nhiều biến động. Hiệu quả sinh lời (ROE) của VIB thuộc top đầu ngành với 3 năm liên tục đạt mức trên 30%. Hệ số an toàn vốn (CAR) theo Basel II đạt 12,7%, cao hơn đáng kể so với mức 8% của Ngân hàng Nhà nước. Với nền tảng quản trị rủi ro vững mạnh, VIB kiểm soát nợ xấu ở mức thấp 1,79%.
Đối với hoạt động phát hành thẻ, tính đến 31/12/2022, VIB đã phát hành hơn 2,4 triệu thẻ, trong đó riêng thẻ tín dụng đạt hơn 600.000 thẻ. Thị phần chi tiêu thẻ của VIB chiếm gần 35% tổng doanh số chi tiêu của Mastercard tại Việt Nam (theo Mastercard). Kết quả này đạt được nhờ các chương trình ưu đãi vượt trội dành cho khách hàng sử dụng thẻ, qua đó thúc đẩy tổng chi tiêu thẻ hơn 3,1 tỷ đô la trong cả năm 2022.
- ACB: Lãi trước thuế đạt 17.021 tỷ đồng, tăng 50% so với năm 2021 và vượt kế hoạch cả năm (15.000 tỷ đồng). Về chất lượng tài sản, tỷ lệ nợ xấu ACB ở mức thấp 0,74%, giảm so với 0,78% cuối năm 2021 và là năm thứ 7 liên tiếp ở mức dưới 1%. Tỷ lệ dự phòng bao nợ xấu đạt 155%.
- Techcombank: Lợi nhuận trên 1 tỷ USD, đạt 25.600 tỷ đồng, tăng 10% so với năm trước. Tỷ lệ nợ xấu cuối năm 2022 ở mức 0,9%, tăng so với năm 2021 nhưng vẫn nằm trong nhóm thấp nhất toàn ngành. Tỷ lệ dự phòng bao nợ xấu đạt 125%. Hệ số an toàn vốn (CAR) tăng lên mức 15,2%, gần gấp đôi so với yêu cầu của Basel II. Tỷ lệ CASA giảm xuống còn 37%.
- Sacombank: Ngân hàng công bố lợi nhuận trước thuế đạt 6.339 tỷ đồng, tăng 44% so với năm 2021. Chất lượng tài sản được cải thiện mạnh mẽ, trong đó, tỷ lệ nợ xấu nội bảng giảm từ 1,47% xuống còn 0,98%.
- VPBank: Do tăng mạnh trích lập dự phòng và chi phí hoạt động trong quý IV/2022, VPBank ghi nhận lợi nhuận quý này giảm 47% so với cùng kỳ, chỉ đạt 1.382 tỷ đồng (trước thuế). Tuy nhiên, nhờ kết quả kinh doanh tích cực của những quý trước đó, cả năm 2022, lợi nhuận trước thuế của VPBank đạt 21.219 tỷ đồng, tăng 47,7% so với năm 2021.
- HDBank: Lợi nhuận trước thuế đạt 10.268 tỷ đồng - mức cao nhất từ trước đến nay của nhà băng này, tăng 27% so với năm 2021 và hoàn thành 105% kế hoạch cổ đông giao. Các chỉ tiêu ROAE đạt 23,5%, ROAA đạt 2,1%, hệ số an toàn vốn CAR đạt hơn 13,4% - nằm trong top cao hàng đầu về an toàn vốn trong hệ thống.
- MB: Lợi nhuận trước thuế năm 2022 của MB đạt 22.729 tỷ đồng, tăng 38% so với năm 2021. Ngân hàng có tốc độ tăng trưởng tín dụng đáng kể trong năm qua với dư nợ cho vay khách hàng tăng tới 26,7%, đạt 460.574 tỷ đồng. Đến 31/12/2022, tổng tài sản của MB đạt 728.532 tỷ đồng, tăng 20% so với cuối năm 2021. Tiền gửi khách hàng của MB tăng 15,3% lên 443.605 tỷ đồng – mức tăng cao hơn nhiều so với toàn ngành (khoảng 6%). Đáng chú ý, tỷ lệ CASA cuối năm 2022 của MB là 40,6%, tuy giảm so với mức 48,7% cuối năm 2021 nhưng là tỷ lệ cao nhất được ghi nhận trong hệ thống.
- SHB: Tính đến 31/12/2022, tổng tài sản của SHB đạt hơn 551 nghìn tỷ đồng, vốn tự có theo chuẩn Basel II đạt 62.577 tỷ đồng, tổng huy động đạt hơn 407 nghìn tỷ đồng, dư nợ cho vay khách hàng đạt hơn 385 nghìn tỷ đồng. Tổng thu nhập thuần từ hoạt động kinh doanh của SHB trong năm 2022 đạt hơn 19.350 tỷ đồng. Lợi nhuận trước thuế đạt hơn 9.658 tỷ đồng, tăng 54% so với cùng kỳ.
- Kienlongbank: Kết thúc năm tài chính 2022, bám sát theo các mục tiêu trọng yếu và các chỉ tiêu kinh doanh được ĐHĐCĐ thông qua, KienlongBank đã hoàn thành vượt kế hoạch năm. Tính riêng quý 4, tổng thu nhập tăng 196,9 tỷ đồng, tương đương tăng 37,14% so với cùng kỳ. Lũy kế cả năm 2022, tổng thu nhập hoạt động tăng 294,4 tỷ đồng, tăng 12,70% so với năm trước, chủ yếu do thu nhập lãi thuần tăng 160,6 tỷ đồng, tăng 8,32% so với cùng kỳ. Lãi thuần từ hoạt động dịch vụ tăng 140,4 tỷ đồng, tức tăng 54,92% so với năm 2021.
Riêng quý 4 Ngân hàng ghi nhận 168,6 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế, tăng 28,2% so với quý 4 năm 2021. Lợi nhuận sau thuế quý đạt hơn 134,6 tỷ đồng. Cả năm 2022 lợi nhuận trước thuế của Kiên Long đạt 682 tỷ đồng và sau thuế là 555 tỷ. Đến 31/12/2022, tổng tài sản hợp nhất của KienlongBank đạt gần 85.760 tỷ đồng. Tổng huy động vốn đạt 75.843 tỷ đồng. Tổng dư nợ tín dụng đạt hơn 45.498 tỷ đồng, tăng 16,12% so với năm 2021. Tỷ lệ nợ xấu chỉ 1,18%.
Năm 2022, KienlongBank cũng đã chủ động trong việc quản trị rủi ro, tiết giảm tối đa chi phí phát sinh trong các hoạt động vận hành, dành một phần lợi nhuận kinh doanh để triển khai nhiều giải pháp hỗ trợ, đồng hành cùng khách hàng. Theo đó, Ngân hàng đã giảm lãi suất cho vay từ 1% - 2%/năm; triển khai nhiều giải pháp phù hợp, hỗ trợ cho cả nhóm khách hàng cá nhân và khách hàng doanh nghiệp.
- OCB: Tính đến 31/12/2022, tổng tài sản đạt 193.994 tỷ đồng, tăng 5% so với cùng kỳ năm 2021. Tổng huy động thị trường 1 đạt 137.403 tỷ đồng, tăng 9% so với cùng kỳ. Dư nợ thị trường 1 tăng 19% so với năm 2021 đạt 122.792 tỷ đồng. Đặc biệt, OCB đã ghi nhận sự tăng trưởng ấn tượng của thu nhập lãi thuần so với năm trước khi đạt 6.948 tỷ đồng tăng 21%. Riêng đối với mảng dịch vụ - một trong những mảng đem lại nguồn lợi nhuận chính cho ngân hàng, cũng đạt được những thành quả đầy ấn tượng. Theo đó, thu thuần dịch vụ năm 2022 tăng đến 29% so với năm 2021, đạt 1.014 tỷ đồng nhờ sự tăng trưởng mạnh mẽ của dịch vụ thẻ, bảo hiểm và dịch vụ quản lý tài khoản, phù hợp với định hướng đa dạng hóa nguồn thu của OCB. Cụ thể, năm 2022, thu thuần phí của thẻ tăng 122% so với cùng kỳ, doanh số giao dịch thẻ tăng trưởng 83% so với năm 2021. Song song đó, thu nhập kinh doanh bảo hiểm tăng trưởng 23%, dịch vụ quản lý tài khoản tăng 55%.
VNBA News