Thứ ba, 29/10/2024
   

Góp ý với quy định tổ chức tín dụng mua, bán trái phiếu doanh nghiệp

Việc các tổ chức tín dụng (TCTD) tham gia với cơ quan soạn thảo văn bản quy phạm ngay từ đầu là rất quan trọng và cần thiết, bởi các ý kiến sẽ giúp cho các quy định sát hơn với thực tiễn thị trường và hoạt động của TCTD, tạo nên sự thống nhất về cách hiểu, đảm bảo cho quá trình triển khai thực hiện,

Việc các tổ chức tín dụng (TCTD) tham gia với cơ quan soạn thảo văn bản quy phạm ngay từ đầu là rất quan trọng và cần thiết, bởi các ý kiến sẽ giúp cho các quy định sát hơn với thực tiễn thị trường và hoạt động của TCTD, tạo nên sự thống nhất về cách hiểu, đảm bảo cho quá trình triển khai thực hiện, áp dụng các quy phạm pháp luật được suôn sẻ, an toàn, hạn chế thấp nhất những rủi ro, vướng mắc.

Đối với dự thảo Thông tư thay thế Thông tư số 22/2016/TT-NHNN và Thông tư 15/2018/TT-NHNN quy định việc TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài (CNNHNNg)  mua, bán trái phiếu doanh nghiệp hiện đang nhận được nhiều ý kiến đóng góp của các TCTD hội viên Hiệp hội Ngân hàng.

Ý kiến chung

Việc ban hành Thông tư mới thay thế Thông tư về mua, bán trái phiếu doanh nghiệp hiện nay là cần thiết để bảo đảm phù hợp với thực tiễn, tình hình hoạt động của các TCTD. Tuy nhiên, để hoàn thiện hơn khuôn khổ pháp lý liên quan đến phát hành trái phiếu doanh nghiệp, giúp chính sách ban hành thực sự đi vào cuộc sống, các quy định nên mang tính định hướng, để các TCTD được thực hiện các quyền của mình theo các quy định tại Luật các TCTD, Bộ luật Dân sự, Luật Doanh nghiệp, Luật Chứng khoán... và thông qua việc thanh tra, kiểm tra, nếu các TCTD vi phạm thì có chế tài xử lý.

Về bản chất việc mua, bán trái phiếu doanh nghiệp như hoạt động đầu tư kinh doanh giấy tờ có giá, dự thảo Thông tư lại đang quy định theo hướng đầu tư trái phiếu tương tự như một hoạt động cấp tín dụng. Vô hình trung sẽ đem lại rủi ro cho TCTD khi bị thanh tra, kiểm tra; hơn nữa, quy định về mua, bán trái phiếu giống quy định về cho vay thì khi không thu hồi được tiền đầu tư kinh doanh trái phiếu trách nhiệm của TCTD sẽ rất lớn. Việc áp dụng các quy tắc cấp tín dụng vào hoạt động mua bán trái phiếu là rất khó, nếu không nói là bị lẫn lộn khái niệm giữa nghiệp vụ đầu tư kinh doanh giấy tờ có giá và nghiệp vụ cấp tín dụng đã được quy định tại Luật các Tổ chức tín dụng.

Về bố cục của dự thảo tại Điều 3 có tên gọi Nguyên tắc mua, bán trái phiếu doanh nghiệp” với 14 Khoản, cần tách bạch quy định về (i) Điều về điều kiện mua bán trái phiếu doanh nghiệp và (ii) Các trường hợp không được mua, bán trái phiếu doanh nghiệp. Qua đó làm rõ các điều khoản hạn chế để đảm bảo an toàn hệ thống. Ngoài ra, tại Điều 7 dự thảo cần tách điều kiện, trách nhiệm của TCTD khi mua trái phiếu trên thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp để phù hợp với thực tiễn giao dịch.

Để hợp nhất các quy định, dự thảo Thông tư cần xem xét, bổ sung thêm đối tượng là các ngân hàng bị kiểm soát đặc biệt, để nhóm các ngân hàng này không phải thực hiện thêm các thủ tục riêng.

Những góp ý cụ thể

1.Về nguyên tắc mua, bán trái phiếu doanh nghiệp (Điều 3):

a)Khoản 3 Điều 3 dự thảo Thông tư: Đề nghị sửa đổi theo hướng TCTD mua, bán trái phiếu doanh nghiệp phải có hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ hoặc xếp hạng tín nhiệm của doanh nghiệp phát hành trái phiếu … nhằm làm rõ TCTD có thể sử dụng một trong hai hình thức xếp hạng tín dụng hoặc xếp hạng tín nhiệm. Thực tế các TCTD đã có xếp hạng tín dụng nội bộ cũng đã đánh giá tình hình tài chính và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp từ đó xếp hạng tín nhiệm khách hàng. Đây cũng được coi là nguyên tắc để giúp TCTD giảm thiểu rủi ro khi mua, giữ trái phiếu doanh nghiệp. Rủi ro vỡ nợ của 1 trái phiếu doanh nghiệp trong thời gian rất ngắn là rất thấp, vì vậy chỉ nên áp dụng điều khoản trên nếu TCTD mua để nắm giữ dài hạn (ngoại bảng). Còn nếu mua để kinh doanh, hay bán lại ngay thì không cần thiết để hỗ trợ thị trường thứ cấp.

b) Khoản 5 Điều 3 dự thảo Thông tư quy định: “5. Tổ chức tín dụng không được vay vốn của tổ chức tín dụng khác để mua trái phiếu doanh nghiệp”.

Luật các TCTD không cấm hoạt động này, nên không có sơ sở để đưa ra điều cấm như trên. Việc đưa ra điều cấm này chưa thực sự phù hợp với nguyên tắc xây dựng pháp luật. Bên cạnh đó, các TCTD huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau bao gồm nguồn vốn từ dân cư, tổ chức và các định chế tài chính (bao gồm TCTD khác) và thực hiện quản lý vốn tập trung. Nguồn vốn tập trung được sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau như đầu tư, cho vay, trả nợ đến hạn... và không tách riêng nguồn hình thành vốn khi sử dụng. Vì vậy, TCTD không có căn cứ để xác định nguồn vốn sử dụng để mua trái phiếu doanh nghiệp được hình thành từ nguồn nào. Do đó, đề nghị bỏ nội dung này do không phù hợp với hoạt động quản lý vốn của TCTD.

c)  Khoản 6 Điều 3 dự thảo Thông tư quy định: 6. Tổ chức tín dụng chỉ được mua trái phiếu doanh nghiệp khi có tỷ lệ nợ xấu dưới 3% theo kỳ phân loại gần nhất theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động đối với tổ TCTD, trừ trường hợp mua trái phiếu doanh nghiệp theo phương án cơ cấu lại được cấp có thẩm quyền phê duyệt theo quy định của pháp luật”.

Đề nghị xem xét không áp dụng quy định tại Khoản 6 Điều 3 dự thảo Thông tư đối với các công ty tài chính tổng hợp, hoặc nếu có áp dụng thì tỷ lệ nợ xấu cần theo tiêu chuẩn nợ của nhóm các Công ty tài chính do: Hoạt động của các công ty tài chính tổng hợp chủ yếu là mảng cho vay tiêu dùng, với đặc trưng là các món vay nhỏ, vay không có tài sản đảm bảo, nên tỉ lệ nợ xấu ở nhóm công ty này sẽ cao. Theo thống kê tỷ lệ nợ xấu của các công ty tài chính có thị phần lớn trên thị trường giao động quanh mức 6-7% (ví dụ FE tỷ lệ này năm 2020 là 6,6%; HD Sài gòn 5,8%; Home Credit 7,8%).

d) Điểm c Khoản 7 Điều 3 dự thảo Thông tư quy định TCTD chỉ được mua trái phiếu doanh nghiệp khi: “c) Doanh nghiệp phát hành cam kết không thay đổi mục đích sử dụng vốn trong thời gian tổ chức tín dụng nắm giữ trái phiếu”.

Đề nghị Ban soạn thảo xem xét lại quy định tại điểm c Khoản 7 Điều 3 dự thảo Thông tư vì nếu TCTD đầu tư trái phiếu sơ cấp thì TCTD cũng chỉ là một trong những người sở hữu trái phiếu, do đó, không thể đặt ra yêu cầu là Tổ chức phát hành không thay đổi mục đích sử dụng vốn trong thời gian TCTD nắm giữ trái phiếu, như vậy tạo ra sự bất bình đẳng giữa các nhà đầu tư với nhau, làm thay đổi tính chất trái phiếu cùng một đợt là ngang bằng nhau về quyền lợi. Hiện quy định về nguyên tắc sử dụng vốn trái phiếu đã được quy định tại Nghị định 153/2020/NĐ-CP và doanh nghiệp phát hành báo cáo mỗi 6 tháng một lần về tình hình sử dụng vốn. Do đó, việc yêu cầu doanh nghiệp phát hành cam kết riêng đối với TCTD mà không cam kết với các trái chủ khác là không khả thi. Hơn nữa, nếu TCTD đầu tư trái phiếu thứ cấp, tức là mua từ nhà đầu tư khác thì cũng rất khó có cơ hội để đàm phán về cam kết này với với Tổ chức phát hành.

Trên thị trường quốc tế, việc cam kết sử dụng vốn đúng mục đích là cam kết của doanh nghiệp phát hành và điều đó sẽ ảnh hưởng đến tín nhiệm của doanh nghiệp phát hành nếu họ vi phạm. Trên thực tế, các nhà đầu tư không thể và không có đủ công cụ để quản lý cách doanh nghiệp sử dụng vốn. 

e) Điểm d Khoản 7 Điều 3 dự thảo Thông tư quy định: d) Phương án phát hành, phương án sử dụng vốn, số tiền thu được từ đợt chào bán, đợt phát hành khả thi theo đánh giá của tổ chức tín dụng” và điểm đ Khoản 7 Điều 3 dự thảo Thông tư quy định: “đ) Doanh nghiệp phát hành trái phiếu có khả năng tài chính để đảm bảo thanh toán đủ gốc và lãi trái phiếu đúng hạn”.

Đây là nguyên tắc để giúp TCTD giảm thiểu rủi ro khi nắm giữ trái phiếu doanh nghiệp. Nhưng là không hiệu quả nếu TCTD chỉ mua để kinh doanh và bán ngay cho nhà đầu tư khác. Trên thị trường trái phiếu quốc tế, trách nhiệm đánh giá phương án sử dụng vốn và tính khả thi của phương án sử dụng vốn thuộc về người mua trái phiếu cuối cùng. Người trung gian môi giới không gợi ý, hay đưa những đánh giá của phía môi giới về doanh nghiệp phát hành cho người mua. Do đó, đề nghị chỉ áp dụng các điều khoản này trong trường hợp TCTD mua để nắm giữ trái phiếu dài hạn, không áp dụng trong trường hợp TCTD mua để kinh doanh.

f) Điểm e Khoản 7 Điều 3 dự thảo Thông tư quy định TCTD chỉ được mua trái phiếu doanh nghiệp khi: “e) Doanh nghiệp phát hành trái phiếu cam kết mua lại trái phiếu trước hạn thanh toán trong trường hợp doanh nghiệp phát hành vi phạm quy định pháp luật về phát hành trái phiếu doanh nghiệp, vi phạm phương án phát hành trái phiếu doanh nghiệp, vi phạm cam kết giữa doanh nghiệp phát hành và TCTD”.

Đề nghị Ban soạn thảo làm rõ điều kiện tại điểm e Khoản 7 này có được áp dụng cho trường hợp mua trái phiếu doanh nghiệp trên thị trường thứ cấp hay không? Thực tế, khi đầu tư thứ cấp, TCTD không thể can thiệp vào phương án phát hành trái phiếu doanh nghiệp của doanh nghiệp phát hành, việc yêu cầu doanh nghiệp phát hành cam kết riêng về điều kiện tại điểm e này nếu như trong phương án phát hành trái phiếu không có nội dung này sẽ rất khó.

Ngoài ra, đề nghị Ban soạn thảo điều chỉnh phần gạch chân thành “vi phạm cam kết giữa doanh nghiệp phát hành và TCTD (nếu có)” để phù hợp với trường hợp TCTD mua trái phiếu doanh nghiệp thứ cấp, không phát sinh cam kết giữa doanh nghiệp phát hành và TCTD (việc cam kết riêng với TCTD trong trường hợp này không phải nghĩa vụ của doanh nghiệp phát hành theo quy định của pháp luật). Đồng thời, chỉ áp dụng đối với những cam kết có liên quan đến trái phiếu doanh nghiệp (nếu có) và TCTD đánh giá có khả năng ảnh hưởng đến khả năng trả nợ gốc, lãi trái phiếu (như việc chậm cung cấp Báo cáo tài chính… có thể cho thời gian khắc phục), không áp dụng đối với những cam kết cho các nghĩa vụ nợ khác của khách hàng tại TCTD.

g) Điểm g Khoản 7 Điều 3 dự thảo Thông tư quy định TCTD chỉ được mua trái phiếu doanh nghiệp khi: “g) Trái phiếu doanh nghiệp mà doanh nghiệp phát hành đã thay đổi phương án sử dụng vốn, số tiền thu được từ đợt chào bán, đợt phát hành đối với số tiền thu được từ đợt chào bán, đợt phát hành, ngoài các quy định tại điểm a, b, c, d, e khoản này, thì tổ chức tín dụng chỉ được mua trái phiếu này khi doanh nghiệp phát hành trái phiếu hoạt động sản xuất, kinh doanh có lãi liên tục 3 năm gần nhất và doanh nghiệp phát hành được xếp hạng ở mức cao nhất theo quy định xếp hạng tín dụng nội bộ, xếp hạng tín nhiệm của tổ chức tín dụng”.

Đề nghị Ban soạn thảo sửa đổi quy định trên thành: “… TCTD chỉ được mua trái phiếu này khi doanh nghiệp phát hành trái phiếu hoạt động sản xuất, kinh doanh có lãi trong 1 năm gần nhất (căn cứ báo cáo tài chính của công ty mẹ trong trường hợp doanh nghiệp phát hành là công ty mẹ) và doanh nghiệp phát hành được xếp hạng tín dụng nội bộ hoặc xếp hạng tín nhiệm ở mức được cấp tín dụng trở lên” vì xét theo 1 năm gần nhất cũng đã đánh giá được tình trạng hoạt động của doanh nghiệp. Ngoài ra, so sánh Nghị định 153/2020/NĐ-CP, doanh nghiệp phát hành không bắt buộc có lãi nên quy định sản xuất, kinh doanh có lãi 1 năm gần nhất cũng đã chặt hơn quy định tại Nghị định 153/2020/NĐ-CP. Bên cạnh đó, tính hình dịch bệnh Covid hiện tại có ảnh hưởng lớn đến tình hình kinh doanh nghiệp, quy định doanh nghiệp phát hành được xếp hạng tín dụng, xếp hạng tín nhiệm ở mức cao nhất rất khó để đạt được, hầu như không khách hàng nào có thể đạt được. Quy định tại dự thảo gián tiếp có thể làm giảm mức đánh giá đối với khách hàng.

h) Khoản 9 Điều 3 dự thảo Thông tư quy định: 9. Tổ chức tín dụng không được mua trái phiếu doanh nghiệp phát hành trong đó có mục đích để cơ cấu lại các khoản nợ của chính doanh nghiệp phát hành”.

Đề nghị Ban soạn thảo quy định rõ hơn thế nào là “mục đích cơ cấu lại các khoản nợ” do hiện nay chưa có văn bản pháp luật nào có định nghĩa về vấn đề này. Trong thông tư 02/2013/TT-NHNN quy định về phân loại tài sản có và trích lập dự phòng rủi ro… chỉ có định nghĩa về nợ cơ cấu thời hạn trả nợ.

i) Khoản 10 Điều 3 dự thảo Thông tư quy định: 10. TCTD không được mua trái phiếu doanh nghiệp phát hành trong đó có mục đích để góp vốn, mua cổ phần tại doanh nghiệp khác”.

Mục đích trái phiếu để mua cổ phần, phần vốn góp là các mục đích không bị pháp luật cấm, cũng không phải là yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng, do đó không có cơ sở để cấm các TCTD thực hiện mua trái phiếu với mục đích này. Vì vậy, đề nghị  xem xét bỏ quy định tại Khoản 10 Điều 3 dự thảo thông tư hoặc xem xét quy định nội dung này theo hướng các TCTD được thực hiện nhưng kèm theo các điều kiện chặt chẽ hơn (tương tự như cấp tín dụng để đầu tư, kinh doanh cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp).

j) Khoản 11 Điều 3 dự thảo Thông tư quy định: “TCTD không được mua trái phiếu doanh nghiệp phát hành trong đó có mục đích để tăng quy mô vốn hoạt động”.

Mục đích tăng quy mô vốn hoạt động là mục đích phát hành trái phiếu hợp pháp theo Luật Chứng khoán và Nghị định 153/2020/NĐ-CP. Việc doanh nghiệp phát hành trái phiếu với mục đích tăng quy mô vốn hoạt động để phục vụ nhu cầu sản xuất kinh doanh là nhu cầu chính đáng và không thuộc các trường hợp không được cấp tín dụng và TCTD vẫn được phép cho vay đối với mục đích này theo Thông tư 39/2016/TT-NHNN. Nếu quy định như dự thảo sẽ ảnh hưởng rất lớn đến Tổ chức phát hành có nhu cầu huy động vốn thật sự, cũng như TCTD trong hoạt động đầu tư này. Thực tế hiện nay, các nhà đầu tư tham gia đầu tư thị trường trái phiếu doanh nghiệp chủ yếu là các TCTD, các công ty chứng khoán. Với quy định này của dự thảo sẽ làm giảm cơ hội các TCTD được đầu tư vào thị trường này, cũng như làm giảm đi sức hấp dẫn, thanh khoản của trái phiếu doanh nghiệp, thị trường trái phiếu doanh nghiệp.

Mặt khác, các quy định hiện hành đã đủ đảm bảo để các TCTD đầu tư an toàn hơn, như Nghị định 153/2020/NĐ-CP đã quy định chặt chẽ hơn so với Nghị định 163/2018/NĐ-CP về quản lý mục đích sử dụng vốn (theo Điều 5, Điều 13 và Điều 21 Nghị định 153/2020/NĐ-CP). Bên cạnh đó, theo quy định, các khoản đầu tư trái phiếu doanh nghiệp được theo dõi tính toán như một khoản cho vay trong các giới hạn đảm bảo an toàn trong hoạt động (theo Thông tư 22/2019/TT-NHNNN, Thông tư 22/2016/TT-NHNN, Thông tư 41/2016/TT-NHNN). Cơ chế quản lý này được thực hiện thông qua việc yêu cầu phải bao gồm giá trị đầu tư trái phiếu doanh nghiệp khi tính toán các chỉ số:  Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu; Giới hạn cấp tín dụng các đối tượng thuộc Điều 127 Luật các TCTD; Giới hạn cấp tín dụng một khách hàng, một khách hàng và người có liên quan theo Điều 128 Luật các TCTD; Tỷ lệ tăng trưởng tín dụng; Tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung và dài hạn.

Do đó, để nghị Ban soạn thảo làm rõ thế nào là tăng quy mô vốn hoạt động bởi bản chất các hoạt động phát hành trái phiếu đều là tăng quy mô hoạt động và xem xét lại quy định các TCTD không được đầu tư vào trái phiếu doanh nghiệp có mục đích phát hành tăng quy mô vốn hoạt động. Nhằm kiểm soát chặt hoạt động mua trái phiếu doanh nghiệp, thay vì quy định không cho phép, Ngân hàng Nhà nước có thể xem xét đưa ra các điều kiện ràng buộc mà TCTD phải đáp ứng khi đầu tư vào trái phiếu doanh nghiệp ở giai đoạn đầu tư sơ cấp.

k)  Khoản 12 Điều 3 dự thảo Thông tư quy định: “TCTD không được bán trái phiếu doanh nghiệp cho công ty con của chính TCTD đó, trừ trường hợp bán trái phiếu doanh nghiệp cho công ty con theo phương án tái cơ cấu đã được phê duyệt”

Luật các TCTD, Luật Chứng khoán, Luật Doanh nghiệp và các quy định về quản trị công ty, công bố thông tin quy định rất chặt chẽ về trình tự, thủ tục phê duyệt giao dịch giữa công mẹ - con, đảm bảo chặt chẽ, minh bạch, công khai. Thêm vào đó, TCTD và các công ty con là các pháp nhân độc lập với nhau và có địa vị pháp lý như nhau khi tham gia vào các quan hệ dân sự hay kinh doanh thương mại. Việc bán trái phiếu doanh nghiệp giữa TCTD và công ty con là các giao dịch giữa các pháp nhân với điều kiện tuân thủ theo quy định giao dịch và công bố thông tin giữa các bên liên quan, không làm ảnh hưởng đến hoạt động và tình hình tài chính của các TCTD. Đồng thời, việc giới hạn TCTD bán trái phiếu doanh nghiệp cho công ty con có thể ảnh hưởng đến chiến lược, hoạt động kinh doanh của TCTD và công ty con. Do đó, đề nghị Ban soạn thảo xem xét bỏ quy định này hoặc quy định theo hướng chỉ hạn chế TCTD bán trái phiếu doanh nghiệp cho công ty con trong trường hợp công ty con đó không phải là công ty chứng khoán vì việc mua bán trái phiếu doanh nghiệp là hoạt động kinh doanh chứng khoán bình thường và độc lập của các công ty chứng khoán. Bản thân các công ty chứng khoán cũng phải tuân thủ quy định pháp luật về chứng khoán (như quy định về nghiệp vụ, về các chỉ số tài chính,…) khi thực hiện mua bán chứng khoán. Do đó việc các công ty chứng khoán mua trái phiếu doanh nghiệp từ công ty mẹ là TCTD không ảnh hưởng đến TCTD và công ty chứng khoán. Nếu hạn chế việc bán trái phiếu doanh nghiệp từ TCTD sang công ty con là công ty chứng khoán thì sẽ hạn chế nguồn hàng của công ty chứng khoán, trong khi đó công ty chứng khoán cũng là một nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp, một thể chế kinh doanh đóng vai trò quan trọng trong việc tạo lập và phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp.

l)  Khoản 14 Điều 3 dự thảo Thông tư quy định: “14. Trừ trường hợp bán có kỳ hạn và bán trái phiếu doanh nghiệp theo phương án cơ cấu lại được cấp có thẩm quyền phê duyệt theo quy định của pháp luật, trong vòng 12 tháng sau khi bán trái phiếu doanh nghiệp thì TCTD không được mua trái phiếu doanh nghiệp mà TCTD đã bán và/hoặc trái phiếu doanh nghiệp được phát hành cùng lô/cùng đợt phát hành với trái phiếu doanh nghiệp mà TCTD đã bán. Sau 12 tháng kể từ khi bán trái phiếu doanh nghiệp, TCTD chỉ được mua trái phiếu doanh nghiệp đã bán và/hoặc trái phiếu doanh nghiệp được phát hành cùng lô/cùng đợt phát hành với trái phiếu doanh nghiệp mà TCTD đã bán khi: a) Bên mua trái phiếu doanh nghiệp này từ TCTD phải thanh toán toàn bộ số tiền mua trái phiếu doanh nghiệp tại thời điểm ký kết hợp đồng mua, bán trái phiếu doanh nghiệp; b) Doanh nghiệp phát hành trái phiếu hoạt động sản xuất, kinh doanh có lãi liên tục 3 năm gần nhất và được xếp hạng ở mức cao nhất theo quy định xếp hạng tín dụng nội bộ, xếp hạng tín nhiệm của TCTD”.

Việc mua bán trái phiếu doanh nghiệp là một trong những quyền hợp pháp của trái chủ sở hữu trái phiếu doanh nghiệp. Do đó, quyền của TCTD đối với trái phiếu doanh nghiệp không nên bị hạn chế so với các trái chủ khác. Quy định trong vòng 12 tháng sau khi bán trái phiếu doanh nghiệp, TCTD không được phép mua lại trái phiếu doanh nghiệp đã bán và/hoặc trái phiếu cùng lô/cùng đợt phát hành sẽ hạn chế các giao dịch của thị trường thứ cấp, ảnh hưởng đến tính thanh khoản của thị trường trái phiếu doanh nghiệp, cũng như hạn chế việc TCTD đầu tư trái phiếu doanh nghiệp một cách linh hoạt trong điều kiện thị trường cho phép, nhằm gia tăng biên lợi nhuận của TCTD, dẫn tới các Tổ chức kinh tế sẽ gặp khó khăn hơn trong việc huy động vốn từ phát hành trái phiếu, kênh dẫn vốn cho doanh nghiệp có thể bị đứt gãy.

Bên cạnh đó, đối với hoạt động mua bán dưới 12 tháng, khi đầu tư TCTD có tính vào tăng trưởng tín dụng. Khi bán trái phiếu doanh nghiệp, TCTD đều theo dõi và trích lập dự phòng theo đúng quy định của Ngân hàng Nhà nước trong trường hợp chưa thu 100% giá trị Hợp đồng mua bán. Như vậy, việc mua bán là giao dịch thực chất. Việc TCTD mua tiếp trái phiếu đó dựa trên cơ sở đánh giá sức khỏe, tính thanh khoản của trái phiếu doanh nghiệp, gia tăng cơ hội kinh doanh cho TCTD. Do đó, đề nghị Ban soạn thảo không quy định thời gian trong vòng 12 tháng sau khi bán, thì TCTD mới được phép mua lại.

Đề nghị Ban soạn thảo giải thích mục đích, ý nghĩa của quy định điểm a Khoản 14 Điều 3 dự thảo Thông tư, làm rõ mối quan hệ giữa việc “bên mua trái phiếu doanh nghiệp này từ TCTD phải thanh toán toàn bộ số tiền mua trái phiếu doanh nghiệp tại thời điểm ký kết hợp đồng mua, bán trái phiếu doanh nghiệp với việc TCTD bán trái phiếu doanh nghiệp và mua trái phiếu phát hành cùng lô, cùng đợt với trái phiếu đã bán hoặc mua chính trái phiếu đã bán từ tổ chức, cá nhân khác (không phải bên mua trái phiếu từ TCTD), từ đó sửa đổi quy định này để phù hợp với thực tế và đảm bảo quyền tự chủ kinh doanh của TCTD. Trường hợp mua lại của chính bên mua trái phiếu từ TCTD, Hợp đồng mua bán trái phiếu doanh nghiệp có thể ký trước thời điểm chuyển tiền. Do vậy, để đảm bảo phù hợp với thực tế, đề nghị Ban soạn thảo xem xét sửa thành “Bên mua trái phiếu doanh nghiệp này từ TCTD phải thanh toán toàn bộ số tiền mua trái phiếu doanh nghiệp theo hợp đồng mua, bán trái phiếu doanh nghiệp đã ký” thay vì tại thời điểm ký hợp đồng mua, bán trái phiếu doanh nghiệp.

Ngoài ra, đề nghị Ban soạn thảo chỉnh sửa quy định tại điểm b Khoản 14 Điều 3 dự thảo Thông tư tương tự như Điểm g Khoản 7 Điều 3.

2.Về quy định nội bộ (Điều 5)

a) Theo Điểm b Khoản 2 Điều 5 dự thảo Thông tư, quy định nội bộ của TCTD phải có nội dung quy định thủ tục thẩm định, thẩm quyền phê duyệt, quyết định bán trái phiếu doanh nghiệp.

Xét về tính chất, khoản nợ phát sinh từ hoạt động cho vay và trái phiếu doanh nghiệp có sự khác biệt lớn: Cho vay là quan hệ tín dụng song phương giữa TCTD và khách hàng, việc cấp khoản vay dựa trên đánh giá đơn phương của TCTD, việc xác định giá trị khoản nợ, nhất là khi khoản nợ đã chuyển thành nợ xấu phức tạp. Tuy nhiên, trái phiếu doanh nghiệp là khoản nợ đã được tiêu chuẩn hóa dưới hình thức giấy tờ có giá, được phát hành theo trình tự, thủ tục, thẩm quyền và điều kiện rất chặt chẽ, được niêm yết, đăng ký giao dịch tập trung để tạo thuận lợi cho việc mua bán, chuyển nhượng, việc xác định giá trị trường khá đơn giản. Với tính chất như trên, việc quy định TCTD phải thực hiện thủ tục thẩm định khi bán trái phiếu doanh nghiệp là không thực sự cần thiết. Do đó, đề nghị không quy định TCTD phải thẩm định, định giá trái phiếu khi bán.

b) Điểm c Khoản 2 Điều 5 dự thảo Thông tư quy định TCTD cần có: Quy trình theo dõi, giám sát tình hình tài chính, tình hình sản xuất kinh doanh, mục đích sử dụng tiền thu được từ đợt phát hành, đợt chào bán trái phiếu của doanh nghiệp phát hành nhằm bảo đảm việc sử dụng tiền thu từ đợt phát hành, đợt chào bán trái phiếu của doanh nghiệp đúng mục đích trong nội dung phương án phát hành trái phiếu và/hoặc phương án sử dụng vốn...”. Quy định này cần thiết và phù hợp cho hoạt động đầu tư sơ cấp, tuy nhiên lại không phù hợp với hoạt động đầu tư thứ cấp do hoạt động đầu tư trái phiếu diễn ra sau khi tổ chức phát hành huy động và giải ngân tiền từ đợt phát hành. Ví dụ trái phiếu kì hạn 10 năm, TCTD mua lại trái phiếu sau 8 năm và tiền trái phiếu đã được sử dụng hết một phần hoặc toàn bộ rồi thì TCTD chỉ có thể căn cứ vào báo cáo sử dụng vốn của Tổ chức phát hành đã gửi định kỳ cho cơ quan nhà nước và các nhà đầu tư và xác nhận (nếu có) của các tổ chức đóng vai trò quản lý tài khoản trái phiếu để xác định trái phiếu đã được sử dụng tiền đúng mục đích hay chưa. Nếu chiểu theo quy định tại điểm c Khoản 2 Điểm 5 này thì các TCTD sẽ rất lúng túng khi thực hiện mua thứ cấp và thực tế cũng rất khó để triển khai được.

- Điểm đ Khoản 2 Điều 5 dự thảo Thông tư quy định: “Các chính sách và giới hạn quản lý rủi ro tín dụng trong hoạt động mua, bán trái phiếu doanh nghiệp, hệ thống đo lường và quản trị rủi ro, điều kiện, biện pháp và quy trình xử lý rủi ro”. Tuy nhiên việc TCTD bán đứt đoạn trái phiếu doanh nghiệp đang sở hữu hoàn toàn không phát sinh rủi ro về tín dụng đối với TCTD chính vì thế việc xây dựng giới hạn quản lý rủi ro tín dụng, hệ thống đo lường... đối với hoạt động bán trái phiếu doanh nghiệp là chưa phù hợp. Do đó, đề nghị Ban soạn thảo bỏ yêu cầu này đối với hoạt động bán trái phiếu doanh nghiệp của TCTD.

3.Về trách nhiệm của tổ chức tín dụng khi thực hiện mua trái phiếu doanh nghiệp (Điều 7)

a)  Khoản 2 Điều 7 dự thảo Thông tư quy định: “Hợp đồng mua trái phiếu doanh nghiệp tối thiểu phải có các nội dung sau: Tên trái phiếu, mục đích phát hành trái phiếu, phương án sử dụng vốn, số tiền thu được từ đợt chào bán, đợt phát hành trái phiếu của doanh nghiệp phát hành, mục đích nắm giữ trái phiếu, số lượng, mệnh giá trái phiếu mua, giá mua trái phiếu, tổng số tiền mua trái phiếu, lãi suất trái phiếu; phương thức thanh toán gốc, lãi trái phiếu; thời hạn và phương thức thanh toán trái phiếu; biện pháp bảo đảm (nếu có); cam kết của doanh nghiệp phát hành không thay đổi mục đích sử dụng vốn trong thời gian tổ chức tín dụng nắm giữ trái phiếu; cam kết của doanh nghiệp phát hành trái phiếu mua lại trái phiếu trước hạn thanh toán trong trường hợp doanh nghiệp phát hành vi phạm quy định pháp luật về phát hành trái phiếu doanh nghiệp, vi phạm phương án phát hành trái phiếu doanh nghiệp, vi phạm cam kết giữa doanh nghiệp phát hành và tổ chức tín dụng; xử lý các vi phạm hợp đồng mua trái phiếu của các bên trong hợp đồng; xử lý tranh chấp phát sinh; các nội dung khác do các bên trong hợp đồng thỏa thuận phù hợp với quy định tại Thông tư này và quy định của pháp luật có liên quan”.

Đề nghị Ban soạn thảo xem xét bỏ quy định về “mục đích nắm giữ trái phiếu” vì hợp đồng mua bán trái phiếu doanh nghiệp là văn bản được ký kết giữa bên mua và bên bán trái phiếu với các nội dung chi tiết về khoản trái phiếu được giao dịch, mục đích nắm giữ trái phiếu là hoạt động kinh doanh nội bộ của TCTD sau khi thực hiện thành công giao dịch mua bán trái phiếu, đồng thời doanh nghiệp phát hành hoặc/và bên bán cũng không có nhu cầu kiểm soát mục đích nắm giữ trái phiếu của bên mua sau giao dịch. Do vậy, nội dung về mục đích nắm giữ trái phiếu được nêu ra tại hợp đồng mua trái phiếu doanh nghiệp là chưa phù hợp.

Ngoài ra, đề nghị xem lại quy định “cam kết của doanh nghiệp phát hành không thay đổi mục đích sử dụng vốn trong thời gian TCTD nắm giữ trái phiếu” và “cam kết của doanh nghiệp phát hành trái phiếu mua lại trái phiếu trước hạn thanh toán trong trường hợp doanh nghiệp phát hành vi phạm quy định pháp luật về phát hành trái phiếu doanh nghiệp, vi phạm phương án phát hành trái phiếu doanh nghiệp, vi phạm cam kết giữa doanh nghiệp phát hành và TCTD”. Nếu trong Phương án phát hành đã có quy định về trường hợp Tổ chức phát hành phải thanh toán trước hạn trong các trường hợp vi phạm này thì có thể Tổ chức phát hành sẽ không cam kết riêng với TCTD muốn đầu tư trái phiếu, lý do có thể đưa ra là TCTD cũng chỉ là một người sở hữu trái phiếu, cùng quyền lợi ngang hàng với các trái chủ khác nên việc Tổ chức phát hành phải cam kết trong Hợp đồng mua bán hoặc cam kết riêng với TCTD là không công bằng với các trái chủ khác và nội dung cam kết cũng đã có trong Phương án phát hành. Như vậy, đề nghị nên trao cho TCTD quyền chủ động kiểm soát điều kiện này trong các tài liệu cam kết của Tổ chức phát hành nói chung hoặc nói riêng (khi chưa có cam kết, công bố chung).

b)  Khoản 7 Điều 7 dự thảo Thông tư quy định: “7. Trong thời gian nắm giữ đến ngày đáo hạn trái phiếu doanh nghiệp, tối thiểu định kỳ 06 tháng/lần, tổ chức tín dụng đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phát hành, đánh giá tình hình tài chính, khả năng thanh toán gốc, lãi trái phiếu của doanh nghiệp phát hành”.

Trên thực tế đối với khoản đầu tư thứ cấp nội dung đánh giá định kỳ 6 tháng khó thực hiện nên đề nghị Ban soạn thảo xem xét lại nội dung này. Ngoài ra, đề nghị Ban soạn thảo hướng dẫn rõ các nội dung đánh giá có bao gồm xếp hạng tín dụng lại doanh nghiệp phát hành hay không? Nếu không thì việc xếp hạng tín dụng của doanh nghiệp phát hành có phải thực hiện định kỳ không?

4.Về trách nhiệm của tổ chức tín dụng khi thực hiện bán trái phiếu doanh nghiệp (Điều 8)

Khoản 5 Điều 8 dự thảo Thông tư quy định: “Có trách nhiệm cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời về tình hình tài chính của doanh nghiệp phát hành,...”.

Trên thực tế, TCTD (Bên bán) chỉ có thể cung cấp thông tin đầy đủ cho bên mua theo hồ sơ tín dụng đang lưu trữ tại TCTD, nghĩa vụ đảm bảo tính chính xác về tình hình tài chính… là trách nhiệm của Tổ chức phát hành. Ngoài ra, từ “kịp thời” cần phải được làm rõ nghĩa, bởi vì thực tế TCTD (Bên bán) thường định kỳ thu thập thông tin tài chính… của Tổ chức phát hành 6 tháng/lần do đó cũng chỉ có thể cung cấp đầy đủ thông tin theo kỳ kế toán gần nhất của doanh nghiệp. Vì vậy, đề nghị Ban soạn thảo xem xét cách diễn đạt nội dung này theo hướng TCTD (Bên bán) có trách nhiệm chia sẻ đầy đủ các thông tin về Tổ chức phát hành, giao dịch trái phiếu…cho bên mua theo hồ sơ tín dụng đang lưu trữ tại bên bán để phù hợp hơn với thực tiễn.

5.Về Điều khoản chuyển tiếp (Điều 12)

Điều 12 dự thảo Thông tư quy định: “Đối với các hợp đồng mua, bán trái phiếu doanh nghiệp được ký kết trước ngày Thông tư này có hiệu lực thi hành, tổ chức tín dụng và khách hàng tiếp tục thực hiện các nội dung trong hợp đồng mua, bán trái phiếu doanh nghiệp đã ký kết phù hợp với quy định của pháp luật có hiệu lực thi hành tại thời điểm ký kết hợp đồng đó hoặc thỏa thuận sửa đổi, bổ sung hợp đồng mua, bán trái phiếu doanh nghiệp phù hợp với quy định tại Thông tư này”.

Hiện tại, các trái phiếu doanh nghiệp được các TCTD đầu tư theo các quy định hiện hành, bao gồm quy định tại Thông tư số 22/2016/TT-NHNN, Nghị định 153/2020/NĐ-CP và các quy định của Ngân hàng Nhà nước. Do đó, việc thay đổi quy định này sẽ làm cho nhiều trái phiếu doanh nghiệp có điều khoản và điều kiện không còn phù hợp. Việc áp dụng hạn chế sớm sẽ làm các trái phiếu doanh nghiệp này bị hạn chế thanh khoản và Tổ chức phát hành sẽ bị động trong việc huy động vốn (có thể nhiều TCTD sẽ yêu cầu Tổ chức phát hành mua lại trước hạn trái phiếu này vì trái phiếu không còn tính thanh khoản) và có thể làm xảy ra nhiều hệ lụy. Do đó, đề nghị Ban soạn thảo quy định không áp dụng đối với các trái phiếu doanh nghiệp đã phát hành trước đó. Ngoài ra, trong bối cảnh đại dịch Covid-19, để các TCTD có thời gian chuẩn bị quy trình/nhân lực thực hiện một cách tốt nhất cũng như các doanh nghiệp trong nền kinh tế có thể thay đổi phù hợp, Thông tư mới này nên có hiệu lực sau khi dịch Covid-19 đã kết thúc để tránh ảnh hưởng đến thị trường (có thể là bắt đầu từ Quý II/2022), theo đó, đề nghị Ban soạn thảo điều chỉnh Thông tư này chỉ áp dụng đối với các trái phiếu doanh nghiệp được phát hành sau thời điểm Thông tư có hiệu lực. Các trái phiếu doanh nghiệp được phát hành trước thời điểm Thông tư này có hiệu lực, được thực hiện theo quy định của Thông tư cũ, đồng thời quy định Thông tư có hiệu lực sau khi đại dịch Covid-19 kết thúc (có thể từ Quý II/2022).

(Tổng hợp ý kiến đóng góp sau Tọa đàm về dự thảo Thông tư thay thế Thông tư số 22/2016/TT-NHNN)

Tính lãi tiền gửi
VNĐ
%/year
month
Tính lãi tiền gửi

Tính toán khoản vay
VNĐ
%/year
month
Tính toán khoản vay