Tại báo cáo cập nhật về triển vọng kinh tế các khu vực công bố vào ngày 11/01/2022, Ngân hàng Thế giới (WB) nhận định, các nước đang phát triển tại Đông Á - Thái Bình Dương (EAP) sẽ đối mặt với hậu quả lâu dài do đại dịch Covid-19 gây ra.
Báo cáo nhận định, kinh tế các nước đang phát triển tại EAP sẽ giảm tốc xuống mức tăng trưởng 5,1% trong năm nay, nhưng rủi ro tăng trưởng thấp đang chi phối tình hình kinh tế khu vực trong bối cảnh nhiều nước phải tái áp đặt các biện pháp giãn cách xã hội để ngăn ngừa đại dịch, tốc độ bao phủ vắc xin chưa chắc chắn tại một số quốc gia, căng thẳng tài chính tăng cao, thiên tai, bão lụt và những rối loạn bắt nguồn từ hiện tượng biến đổi khí hậu.
Tăng trưởng kinh tế (% so với năm trước) (1)
Nguồn: WB tháng 01/2022 (1): Tính theo giá cả và tỷ giá trung bình 2010-2019; (2): Thay đổi so với dự báo tháng 06/2021.
Năm 2021, kinh tế khu vực Đông Á - Thái Bình Dương (EAP) tăng khoảng 7,1%, nhưng tốc độ phục hồi không đồng đều giữa các quốc gia. Kinh tế Trung Quốc năm 2021 dự kiến tăng 8,0%, thấp hơn 0,5% so với dự báo đưa ra hồi tháng 6/2021, do động thái thắt chặt điều chỉnh và tốc độ cắt giảm các gói hỗ trợ chính sách nhanh hơn kỳ vọng. Tại những quốc gia khác, GDP năm 2021 phục hồi khiêm tốn 2,5%, thấp hơn 1,5% so với dự báo đưa ra hồi tháng 6/2021, phản ánh hàng loạt rối loạn lớn bắt nguồn từ đại dịch tại một số quốc gia trong khu vực, bao gồm Indonesia, Malaysia, Philippines, Thái Land, Việt Nam.
Tại Trung Quốc, công nghiệp chế tạo và xuất khẩu dẫn dắt quá trình phục hồi kinh tế. Trái lại, nhu cầu tiêu dùng trầm lắng, nguyên nhân là do biến thể Delta bùng phát tại một số địa phương đã buộc chính phủ phải áp đặt các biện pháp giãn cách xã hội để ngăn chặn đại dịch.
Tại Indonesia, mặc dù Covid-19 bùng phát mạnh mẽ và trầm trọng, sản lượng kinh tế năm 2021 đã vượt mức trước đại dịch, nhờ giá cả hàng hóa tăng cao trên toàn cầu. Tại Việt Nam, các biện pháp giãn cách xã hội áp đặt trong quý III/2021 và tỷ lệ tiêm chủng vắc xin thấp đã cản trở quá trình phục hồi kinh tế. Khoảng 1/5 số quốc gia chưa thể phục hồi sản lượng kinh tế so với trước đại dịch, bao gồm các phụ thuộc vào hoạt động kinh doanh du lịch (Fiji, Malaysia, Thái Land), những nước dễ bị tổn thương do mưa bão (Philippines, các quốc đảo Nam Thái Bình Dương), rối loạn xã hội (Myanmar).
Thời gian gần đây, các nước EAP (không kể Trung Quốc) đã lấy lại được động lượng phục hồi kinh tế nhờ nhu cầu trong nước tăng cao, sau khi nới lỏng các biện pháp giãn cách xã hội và mở rộng tiêm chủng vắc xin. Tuy nhiên, đại dịch vẫn cản trở xuất khẩu và hoạt động kinh tế nói chung, do nhu cầu vẫn trầm lắng trên toàn cầu.
Nhiều nước đang vấp phải áp lực lạm phát, do giá cả tăng cao, mặc dù vẫn dao động trong biên độ đề ra, ngoại trừ trường hợp Mông Cổ và Philippines. Cho tới nay, tất cả các ngân hàng trung ương (NHTW) trong khu vực vẫn duy trì chính sách tiền tệ ổn định, chỉ một vài nước bắt đầu thắt chặt tài khóa do sản lượng kinh tế vẫn thấp hơn so với trước đại dịch.
Về triển vọng, GDP năm 2022-2023 tại EAP được dự báo giảm xuống mức tăng trưởng trung bình 5,2%, phản ánh xu hướng giảm tốc kinh tế tại Trung Quốc, và các nước EAP tiếp tục đối mặt với tình trạng suy giảm nhu cầu trên toàn cầu, khi tăng trưởng kinh tế khiêm tốn tại các nền kinh tế lớn, và nhu cầu đi lại vẫn trầm lắng.
Tại Trung Quốc, GDP năm 2022-2023 được dự báo giảm xuống mức tăng trung bình 5,2%, do tác động của đại dịch, chính phủ áp đặt các quy định quản lý khắt khe hơn đối với một số phân đoạn kinh tế và giảm dần chính sách hỗ trợ xuất khẩu. Tại những quốc gia khác trong khu vực, GDP năm 2022 được dự báo sẽ tăng tốc lên mức tăng trưởng 5,0%, nhờ nhu cầu tăng cao sau khi các nước đẩy mạnh tốc độ tiêm chủng vắc xin. Tuy nhiên, tốc độ phục hồi có sự khác biệt đáng kể giữa các nước trong khu vực. Do tốc độ tiêm chủng tăng nhanh, kinh tế Việt Nam năm 2022 được dự báo tăng 5,5%, sau đó tiếp tục tăng 6,5% vào năm 2023.
Tại nhiều quốc gia, nhất là những nước phụ thuộc nặng nề vào hoạt động kinh doanh du lịch, sản lượng kinh tế năm 2022 vẫn thấp hơn so với trước đại dịch (Campuchia, Malaysia, Philippines), thậm chí muộn hơn (Thái Lan và một số quốc đảo Thái Bình Dương).
Về thu nhập bình quân theo đầu người, GDP năm 2020-2023 giảm xuống mức tăng trung bình 3,9% từ mức tăng 6,3% trong thập kỷ trước khi xảy ra đại dịch, thậm chí sụt giảm mạnh tại các nước nhỏ ngoài khơi Thái Bình Dương.
Báo cáo nhận định, rủi ro tăng trưởng thấp đang chi phối EAP. Mặc dù các nước đang nỗ lực thúc đẩy tiến độ tiêm chủng vắc xin, song đại dịch tái bùng phát đang đe dọa triển vọng kinh tế EAP do sự xuất hiện của biến chủng mới Omicron với tốc độ siêu lây nhiễm chưa từng có. Tỷ lệ tiêm chủng vắc xin được kỳ vọng sẽ vượt 70% vào giữa năm 2022, nhưng tiến độ tiêm chủng chưa chắc chắn tại Myanmar, Papua New Guinea, và một số quốc đảo ngoài khơi Thái Bình Dương.
Lạm phát kỳ vọng tại các nền kinh tế lớn trong khu vực có vẻ sẽ tiếp tục neo với dự báo của NHTW, nhưng bất ổn vẫn ở mức cao, do giá thực phẩm và năng lượng tăng cao, các chuỗi cung ứng bị gián đoạn, thiếu hụt lao động và đại dịch kéo dài. Những yếu tố này có thể sẽ tăng thêm rủi ro về khả năng lạm phát kỳ vọng sẽ tách khỏi lạm phát mục tiêu. Lạm phát thực tế tăng cao hơn lạm phát kỳ vọng tại các nước phát triển có thể đẩy mặt bằng lãi suất tăng đột ngột trên toàn cầu và dẫn đến tình trạng đào thoát nguồn vốn, mất giá đồng tiền, thắt chặt tiền tệ trong nước, thậm chí căng thẳng tài chính tại những quốc gia dễ bị tổn thương nhất. Tác động này sẽ tập trung tại những nước đã hội nhập sâu vào thị trường tài chính quốc tế và nợ nần ở mức cao (Cộng hòa DCND Lào, Mông Cổ, Papua New Guinea), và đang trông chờ vào nguồn vốn vay bên ngoài (Cambodia, Fiji, Palau, TimorLeste).
Rủi ro tài chính tăng theo gánh nặng nợ nần, tỷ lệ nợ công và nợ do chính phủ bảo lãnh so với GDP tại Fiji đã tăng gần hai lần; vượt 60% GDP tại Trung Quốc, Malaysia, Cộng hòa DCND Lào; khoảng 70% GDP tại Mông Cổ.
Mặc dù các ngân hàng thương mại tại tất cả các nền kinh tế chủ chốt trong khu vực vẫn đủ vốn và an toàn, song bất ổn tài chính vẫn rình rập, do tỷ lệ đòn bẩy của khu vực doanh nghiệp tăng cao và liên quan chặt chẽ với các định chế tài chính phi ngân hàng.
Những rủi ro khác bao gồm, khả năng hoạt động xuất khẩu sẽ giảm tốc nhanh hơn so với dự báo do nhu cầu yếu ớt trên toàn cầu, gián đoạn nguồn cung, thiếu hụt lao động, chi phí vận tải tăng cao. Ngoài ra, thiên tai, lũ lụt và biến đổi khi hậu cũng gây rối loạn và thiệt hại cho nhiều nước EAP, đặc biệt là những nước nhỏ ngoài khơi Thái Bình Dương.
Cuối cùng, EAP đối mặt với rủi ro do tác động lâu dài và trầm trọng của đại dịch, nhất là những nước đang đối mặt với làn sóng bùng phát đại dịch và những nước phụ thuộc nặng nền vào hoạt động du lịch và thương mại quốc tế.
Theo SBV