TS. Cấn Văn Lực và nhóm chuyên gia Viện Đào tạo & Nghiên cứu Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) vừa công bố Báo cáo đánh giá kinh tế Việt Nam năm 2020 và dự báo 2021, đưa ra 8 khuyến nghị để bức tranh kinh tế Việt Nam tươi sáng hơn, phấn đấu đạt mục tiêu mà Quốc hội và Chính phủ đề ra cho năm 2021.
Kinh tế thế giới năm 2020 trải qua cuộc khủng hoảng kép về y tế và kinh tế khi đại dịch Covid-19 bùng phát và lan rộng chưa từng có trong lịch sử, đến hết năm 2020 đã có gần 83 triệu người bị nhiễm và hơn 1,8 triệu người tử vong. Đại dịch Covid-19 là cú sốc, là tác nhân lớn nhất đẩy kinh tế thế giới rơi vào suy thoái sâu và phải mất 2-4 năm mới khắc phục được. Ngoài ra, những vấn đề lớn khác như cạnh tranh chiến lược, căng thẳng địa chính trị, tranh chấp chủ quyền, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, xu thế chủ nghĩa bảo hộ gia tăng, sự ly khai của các nước lớn trong các tổ chức quốc tế và khu vực, biến đổi khí hậu…, tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường.
Ở trong nước, trước diễn biến phức tạp, nghiêm trọng của đại dịch Covid-19, Việt Nam đã hoàn thành "mục tiêu kép" vừa phòng, chống dịch bệnh hiệu quả vừa phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội. Bức tranh kinh tế năm 2020 ghi nhận nhiều điểm sáng, được cộng đồng trong nước và quốc tế ghi nhận. Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức đòi hỏi sự nỗ lực và quyết tâm giải quyết, khắc phục trong năm tới mới có thể đạt các mục tiêu, chỉ tiêu phát triển kinh tế xã hội đã đề ra.
Thế giới trải qua năm khủng hoảng kép nghiêm trọng về y tế và kinh tế
Từ đầu năm 2020, đại dịch Covid-19 xuất hiện, bùng phát và hiện diễn biến rất phức tạp, khó lường trên phạm vi toàn cầu đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến tất cả các nước, các lĩnh vực, đẩy kinh tế thế giới rơi vào suy thoái nghiêm trọng nhất kể từ sau Đại khủng hoảng 1929-1933. Theo các tổ chức quốc tế, kinh tế thế giới năm 2020 suy giảm 4-4,5%, trong đó thương mại toàn cầu dự báo suy giảm khoảng 9,2-10% và đầu tư giảm khoảng 10-15%, dòng vốn FDI giảm khoảng 25-30%, chủ yếu do dịch Covid-19.
Đến cuối năm 2020, dấu hiệu kinh tế thế giới phục hồi trở nên rõ nét hơn nhờ nỗ lực và kết quả tích cực của các mặt: (i) Ngành y tế đã đạt những bước tiến quan trọng trong phát triển vaccine và điều trị các ca nhiễm Covid-19; (ii) Các gói hỗ trợ lớn chưa từng có của Chính phủ và NHTW các nước đã phần nào phát huy hiệu quả, giúp các hoạt động kinh tế toàn cầu từng bước phục hồi; (iii) Tình trạng thất nghiệp, mất việc làm đã giảm khá nhanh; và (iv) Hầu hết các ngành kinh tế đã phục hồi, nhưng ở mức độ rất khác nhau. Có thể nhận định, hầu hết các nền kinh tế đã bước đầu hồi phục, song vẫn rất dễ bị tổn thương.
Với năm 2021, hy vọng lớn nhưng cũng là trở ngại lớn vẫn là khả năng sản xuất và phân phối rộng rãi vaccine, khả năng kiểm soát dịch Covid-19 và hiệu quả của các gói hỗ trợ. Theo các tổ chức quốc tế (IMF, WB, ADB, Citi Research…), kinh tế thế giới sẽ phục hồi và tăng trưởng khoảng 4-4,5%, trong đó một số nước có thể hồi phục trở lại mức trước đại dịch vào cuối năm 2021, nhưng cũng có một số nước sẽ chỉ phục hồi hoàn toàn trong 2-4 năm nữa. Thương mại toàn cầu được dự báo tăng trưởng khoảng 4% năm 2021; lạm phát toàn cầu vẫn duy trì ở mức thấp, khoảng 2,2-2,4%.
Kinh tế Việt Nam năm 2020 với nhiều điểm sáng
Trong bối cảnh kinh tế thế giới bị suy thoái sâu do tác động nặng nề của dịch Covid-19, kinh tế Việt Nam năm 2020 vẫn đạt được 10 kết quả ấn tượng.
Một là, Việt Nam là một trong số ít nước trên thế giới kiểm soát tốt dịch bệnh. Nhờ sự chỉ đạo quyết liệt, nhanh chóng của Đảng, Quốc hội, Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương, tổ chức và doanh nghiệp, với tinh thần "chống dịch như chống giặc" và kiên định thực hiện phương châm "quyết tâm thực hiện mục tiêu kép" và sự ủng hộ, đồng lòng, chấp hành nghiêm túc của người dân, các đợt bùng phát dịch Covid-19 đã nhanh chóng được kiểm soát; giúp khôi phục lại các hoạt động kinh tế - xã hội, tạo nền tảng cho sự phục hồi kinh tế trong các tháng cuối năm 2020. Đến nay, kết quả kiểm soát dịch bệnh của Việt Nam được thế giới ghi nhận như một điểm sáng. Bên cạnh đó, Việt Nam đã bắt đầu thử nghiệm vaccine Covid-19 trên người từ cuối tháng 12/2020.
Hai là, tăng trưởng GDP thuộc nhóm cao nhất thế giới, chất lượng tăng trưởng tiếp tục cải thiện. Tăng trưởng GDP năm 2020 đạt 2,91%, tuy là mức thấp nhất trong vòng 10 năm qua, nhưng là mức tăng trưởng dương và thuộc nhóm cao nhất thế giới. Kinh tế Việt Nam phục hồi rõ nét từ đáy Quý 2/2020 với mức tăng trưởng GDP của 4 quý lần lượt là 3,68% 0,39%; 2,62% và 4,48% so với cùng kỳ năm trước. Động lực tăng trưởng chính là các ngành công nghiệp chế biến - chế tạo, xây dựng, nông - thủy sản, bán buôn - bán lẻ, thông tin - truyền thông, tài chính - ngân hàng. Chất lượng tăng trưởng được cải thiện rõ rệt, khi đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng chung đạt 46,1% (bình quân giai đoạn 2016-2020 đạt 44,7%), cao hơn nhiều mức 33,58% của giai đoạn 2011-2015 và vượt mục tiêu 30-35%; năng suất lao động cải thiện rõ nét, tốc độ tăng bình quân giai đoạn 2016-2020 ước đạt 5,8%, cao hơn nhiều giai đoạn 2011-2015 (4,3%) và vượt mục tiêu đề ra (5%). Kết quả này cho thấy khả năng, hiệu quả của Chính phủ trong điều hành nền kinh tế trước những tác động bên ngoài.
Ba là, lạm phát được kiểm soát trong mục tiêu. CPI bình quân năm 2020 tăng 3,23% thấp hơn nhiều so với mục tiêu 4% và cả giai đoạn 2016-2020 tăng khoảng 3,2%, giảm mạnh so với giai đoạn 2011-2015 (7,65%). Lạm phát cơ bản giảm và duy trì ổn định, chỉ tăng 2,31% năm 2020 và bình quân giai đoạn 2016-2020 khoảng 1,8%, giảm mạnh so với giai đoạn 2011-2015 là 6,31%. Kết quả tích cực này đã khẳng định những nỗ lực của Việt Nam trong phối hợp điều hành, nhất là giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa cũng như trong việc đảm bảo cân đối cung cầu hàng hóa, bình ổn giá cả.
Bốn là, các cân đối vĩ mô được duy trì ổn định trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều biến động. Hoạt động xuất khẩu tiếp tục tăng ở mức khá (đạt 281,5 tỷ USD, tăng 6,5% so với năm 2019) trong bối cảnh thương mại toàn cầu ước tính giảm khoảng 10% năm 2020 (WTO, tháng 10/2020). Kim ngạch nhập khẩu năm 2020 đạt 262,4 tỷ USD, tăng 3,6% so với năm 2019; vì thế, cán cân thương mại hàng hóa thặng dư ở mức kỷ lục 19,1 tỷ USD. Thâm hụt ngân sách và nợ công tăng, song vẫn trong tầm kiểm soát. Trong bối cảnh chi ngân sách tăng 8,81% và thu ngân sách giảm 7,55% so với cùng kỳ 2019, thâm hụt ngân sách năm 2020 ước khoảng 4,2% GDP (chưa đánh giá lại), tăng từ mức 3,4% GDP năm 2019, nợ công khoảng 56,8% GDP, tuy cao hơn năm 2019 (55% GDP) song chấp nhận được trong bối cảnh dịch bệnh và vẫn trong giới hạn cho phép (dưới 65%GDP) và thấp hơn mức trung bình toàn cầu (khoảng 100%GDP) và của các quốc gia mới nổi (63% GDP).
Năm là, đầu tư công có những chuyển biến rõ rệt. Trong bối cảnh nền kinh tế chịu ảnh hưởng tiêu cực từ dịch Covid-19, Chính phủ đã quyết định chỉ đạo quyết liệt đẩy nhanh giải ngân đầu tư công bằng các quyết định, đôn đốc, nhắc nhở kịp thời, coi đây như một nhiệm vụ trọng tâm nhằm hỗ trợ phục hồi kinh tế. Nhờ đó, giải ngân vốn đầu tư từ NSNN ước đạt 466,6 nghìn tỷ đồng, bằng 91,1% kế hoạch năm và tăng 34,5% so với năm trước, cao nhất trong giai đoạn 2011-2020 (năm 2019 bằng 90,5% và tăng 7,1%). Theo tính toán của TS. Cấn Văn Lực và Nhóm chuyên gia Viện Đào tạo & Nghiên cứu BIDV, mức tăng này đóng góp 6,5% vào mức tăng trưởng chung (khoảng 0,19 điểm %).
Sáu là, tỷ giá cơ bản ổn định, lãi suất giảm, hoạt động của hệ thống ngân hàng ổn định. Nhờ sự điều hành tỷ giá linh hoạt, chủ động của NHNN, kết hợp với các giải pháp điều tiết thanh khoản hợp lý, chủ động truyền thông, sẵn sàng can thiệp để bình ổn thị trường, tỷ giá giao dịch duy trì xu hướng ổn định, giảm nhẹ 0,21% so với đầu năm, góp phần kiểm soát lạm phát và ổn định vĩ mô. Giống như nhiều nền kinh tế khác, mặt bằng lãi suất của Việt Nam trong năm 2020 cũng giảm mạnh, về mức thấp trong vòng 10 năm qua khi NHNN: (i) thực hiện chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt với 3 lần điều chỉnh giảm lãi suất điều hành giúp giảm mặt bằng lãi suất đầu vào, tạo cơ sở để các TCTD giảm lãi suất cho vay, hỗ trợ nền kinh tế sớm hồi phục sau dịch bệnh, và (ii) thực hiện các biện pháp thị trường mở nhằm tăng thanh khoản trên thị trường liên ngân hàng khiến lãi suất giảm mạnh.
Bảy là, thị trường chứng khoán phục hồi nhanh từ đáy cuối tháng 3/2020. Đến hết ngày 31/12, VNIndex đạt 1.103,87 điểm, tăng 70% kể từ đáy tháng 3 và tăng 14,86% so với đầu năm (tương đương với mức tăng của các thị trường trong khu vực). Quy mô vốn hóa thị trường cổ phiếu đạt gần 5,1 triệu tỷ đồng (tương đương 80% GDP), tăng 14% so với năm 2019. Đặc biệt, thanh khoản thị trường bùng nổ, đạt mức bình quân trên 14.000 tỉ đồng/phiên trên sàn chứng khoán TP.HCM. Về thị trường trái phiếu, trong năm, có đến 333 nghìn tỷ đồng TPCP được phát hành, tăng 68,4% so với năm 2019; lãi suất bình quân ở mức 2,86%/năm. Đối với trái phiếu doanh nghiệp, khối lượng phát hành khoảng 348,4 nghìn tỷ đồng tính đến hết tháng 11/2020 (tăng 14,7% so với cả năm 2019).
Nguyên nhân của đà tăng chứng khoán này cơ bản là do: (i) dịch bệnh được kiểm soát tạo điều kiện phục hồi kinh tế, lợi nhuận của doanh nghiệp khả quan; (ii) nhiều cổ phiếu của các ngành hưởng lợi từ dịch bệnh (như CNTT, viễn thông, thương mại điện tử, xây dựng…) tăng giá mạnh; (iii) lãi suất thấp có thể khiến nhà đầu tư bỏ tiền vào cổ phiếu hơn là gửi tiết kiệm hoặc đầu tư mở rộng sản xuất, kinh doanh; (iv) giãn cách xã hội do dịch bệnh khiến nhiều nhà đầu tư quan tâm đến TTCK nhiều hơn (trong năm, thị trường có thêm gần 340 nghìn tài khoản mới), nhất là khi lợi nhuận đầu tư chứng khoán hiện nay có vẻ hấp dẫn hơn các kênh đầu tư hợp pháp khác. Tuy vậy, cũng cần lưu ý là trên thế giới cũng như tại Việt Nam hiện nay, tính kết nối giữa TTCK và nền kinh tế thực có vẻ lỏng lẻo (thậm chí ngược chiều), khi kinh tế suy thoái hoặc tăng trưởng thấp nhưng chỉ số chứng khoán tăng cao; điều này tiềm ẩn rủi ro và thiếu bền vững.
Tám là, hội nhập quốc tế và đối ngoại đạt được nhiều kết quả quan trọng. Quá trình hội nhập tiếp tục được triển khai mạnh mẽ trong năm 2020 với việc Việt Nam đẩy mạnh triển khai Hiệp định CPTPP (có hiệu lực từ tháng 1/2019), Hiệp định EVFTA (hiệu lực từ 1/8/2020), Hiệp định RCEP đã được ký kết ngày 15/11, dự kiến sẽ có hiệu lực trong vòng 18 tháng và mới nhất là Hiệp định UKVFTA có hiệu lực từ đầu năm 2021. Điều này ngày càng củng cố vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, mang lại nhiều cơ hội xuất khẩu, đầu tư, du lịch, đồng thời là nhân tố quan trọng tiếp tục thúc đẩy quá trình cải cách, hoàn thiện thể chế kinh tế trong thời gian tới. Trong năm 2020, Việt Nam cũng đã thực hiện tốt vai trò Chủ tịch ASEAN, Chủ tịch AIPA-41 và Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc; đồng thời đẩy mạnh quan hệ đối ngoại với các nước, nhất là tăng cường hợp tác trong phòng chống dịch, nâng cao hình ảnh, vị thế của Việt Nam; góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển đất nước.
Chín là, năng lực cạnh tranh quốc gia, môi trường kinh doanh của Việt Nam tiếp tục được cải thiện. Theo Báo cáo về thương hiệu quốc gia năm 2020 do Brand Finance công bố, giá trị thương hiệu của Việt Nam năm 2020 tăng 29% (nhanh nhất thế giới), đạt mức 319 tỷ USD, xếp thứ 33 (tăng 9 bậc từ thứ 42 năm 2019). Cũng trong năm 2020 các tổ chức quốc tế Standard & Poor’s (S&P), Moody’s và Fitch Rating vẫn giữ mức xếp hạng tín nhiệm quốc gia của Việt Nam ở mức BB và triển vọng Ổn định, bất chấp bối cảnh nền kinh tế toàn cầu suy giảm và nhiều nước bị hạ tín nhiệm. Về cải thiện môi trường kinh doanh, Việt Nam đã đưa vào vận hành hệ thống Chính phủ điện tử và theo đánh giá của Liên hợp quốc, chỉ số chính phủ điện tử của Việt Nam năm 2020 tăng 2 bậc, xếp hạng 86/193 quốc gia và 24/47 Châu Á. Bên cạnh đó, cải cách thủ tục hành chính được chú trọng, triển khai quyết liệt và đạt nhiều kết quả tích cực. Tính từ đầu năm 2016 đến nay, Chính phủ đã chỉ đạo cắt giảm, đơn giản hóa gần 1.000 thủ tục hành chính, gần 3.900 điều kiện kinh doanh, gần 6.800 danh mục hàng hóa phải kiểm tra chuyên ngành; tổng cộng cả cải cách thủ tục hành chính và xây dựng Chính phủ điện tử, đã tiết kiệm khoảng 14.900 tỷ đồng mỗi năm (theo cách tính của WB)…
Mười là, các hoạt động kinh tế số, đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp phát triển nhanh. Việc ban hành Quyết định số 749 (tháng 6/2020) phê duyệt "Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030" của Chính phủ là dấu mốc quan trọng trong quá trình chuyển đổi số Việt Nam đến năm 2030. Việt Nam đứng thứ 2 ASEAN về tốc độ tăng trưởng kinh tế số, đạt trung bình 27% trong giai đoạn 2015-2020 (theo Google, Temasek và Brain & Company tháng 11/2020). Quy mô kinh tế số của Việt Nam năm 2020 ước đạt 14 tỷ USD, đóng góp khoảng 5%GDP với sự phát triển năng động của các ngành kinh tế mới nổi như: CNTT, viễn thông, thương mại điện tử, Fintech, Edtech, Proptech… Chỉ số đổi mới, sáng tạo toàn cầu (GII) của Việt Nam năm 2020 xếp thứ 42/131, đứng đầu nhóm 29 quốc gia, nền kinh tế cùng mức thu nhập. Việt Nam đứng thứ 3 ASEAN (sau Indonesia và Singapore) về hoạt động khởi nghiệp trong giai đoạn 2016-2020.
Sáu hạn chế, thách thức
Mặc dù kinh tế Việt Nam ghi nhận sự phục hồi tích cực, đạt kết quả ấn tượng; tuy nhiên vẫn còn 6 hạn chế, thách thức chính.
Một là, rủi ro, thách thức từ bên ngoài vẫn đang hiện hữu. Có thể nhận diện 3 rủi ro chính từ bên ngoài vẫn là: (i) dịch Covid-19 trên thế giới diễn biến khó lường, vẫn chưa được kiểm soát tại nhiều nước, nhiều khu vực; (ii) cạnh tranh chiến lược giữa các quốc gia, đối tác lớn; căng thẳng thương mại và công nghệ còn leo thang và khó đoán; (iii) địa chính trị phức tạp và thiên tai, lũ lụt ảnh hưởng tới khả năng phục hồi kinh tế toàn cầu. Ngoài ra, các tổ chức quốc tế, chuyên gia tiếp tục cảnh báo về rủi ro bất ổn tài chính toàn cầu, có thể dẫn đến bong bóng tài sản tài chính; Việt Nam cũng cần lưu tâm vấn đề này.
Hai là, thu hút vốn FDI giảm mạnh so với năm trước. Lũy kế đến hết ngày 20/12, tổng vốn FDI đăng ký vào Việt Nam ước đạt 28,5 tỷ USD, giảm 25% so với năm 2019, trong đó, chỉ có vốn đăng ký điều chỉnh tăng (+10,6%), mức giảm mạnh nhất thuộc về vốn góp và mua cổ phần (giảm 51,7%). Vốn FDI giải ngân ước đạt gần 20 tỷ USD, giảm nhẹ 2% so với năm 2019. Mặc dù có sự cải thiện trong nửa cuối năm, song nhìn chung thu hút FDI cả năm của Việt Nam cũng nằm trong xu hướng suy giảm đầu tư toàn cầu (dòng vốn FDI toàn cầu ước giảm 25-30% năm 2020, theo UNCTAD). Nguyên nhân dòng vốn FDI vào Việt Nam giảm hoặc chưa tăng nhanh như kỳ vọng trong bối cảnh xu hướng dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu có thể là: (i) nhà đầu tư còn cân nhắc hoặc mới dịch chuyển 1 phần (nhỏ lẻ, dễ dịch chuyển), (ii) việc hạn chế hoặc chưa cho đi lại bằng đường hàng không do dịch bệnh phức tạp khiến việc thực địa, khảo sát, tìm hiểu và đàm phán của nhà đầu tư bị gián đoạn, và (iii) tác động tiêu cực của dịch bệnh khiến nhiều nhà đầu tư khó khăn về tài chính, SX-KD, xuất khẩu nên do dự mở rộng đầu tư.
Ba là, hoạt động doanh nghiệp chịu tác động nặng nề do dịch Covid-19. Năm 2020 là năm hết sức khó khăn đối với hoạt động doanh nghiệp, đặc biệt trong các thời điểm giãn cách xã hội, nhiều doanh nghiệp phải đóng cửa, hoạt động sản xuất kinh doanh bị đình trệ, chuỗi cung - cầu bị bị đứt gãy. Số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới giảm 2,3% so với năm 2019, là năm giảm duy nhất trong giai đoạn 2016-2020. Mặc dù số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động kinh doanh tăng 11,9%, nhưng số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn (lên đến 46,6 nghìn) tăng 62,2% so với năm trước, mức tăng mạnh nhất trong giai đoạn 2016-2020. Điều này cho thấy dịch Covid-19 ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến tình hình hoạt động của doanh nghiệp trong năm 2020.
Bốn là, rủi ro nợ xấu, thâm hụt ngân sách và nghĩa vụ trả nợ gia tăng. Đến cuối năm 2020, tỷ lệ nợ xấu đã vượt mức 2%, song vẫn trong tầm kiểm soát nhờ việc NHNN cho phép cơ cấu lại nợ mà không phải chuyển nhóm nợ để có thể cho vay mới phục vụ sản xuất kinh doanh... (theo tinh thần Thông tư 01 ngày 13/3/2020). Hoạt động của doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn như nêu trên, khiến nợ xấu có xu hướng tăng lên và tín dụng tăng chậm hơn. Tính đến ngày 21/12, tăng trưởng tín dụng đạt 10,14%, thấp hơn mức 13,6% của năm 2019 khi sức cầu còn yếu và khả năng đáp ứng điều kiện tín dụng của một số khách hàng khó khăn hơn do năng lực tài chính giảm sút. Năm 2020, tăng trưởng tín dụng khoảng 11%, thấp nhất trong giai đoạn 2016-2020 nhưng là mức chấp nhận được trong bối cảnh sức cầu còn yếu và không thể hạ chuẩn tín dụng, gây rủi ro lâu dài. Khi Thông tư 01 sửa đổi hết hiệu lực, nợ xấu nội bảng dự báo sẽ tăng lên đến 3-3,5% và nợ xấu gộp có thể lên đến 4,5-5% năm 2021. Cùng với đó, thâm hụt ngân sách tăng từ mức 3,4% GDP năm 2019 lên 4,2% GDP năm 2020. Nghĩa vụ trả nợ so với thu NSNN ước tính năm 2020 là 23% và năm 2021 có thể vượt ngưỡng 25% của Quốc Hội nếu mặt bằng lãi suất vay nợ tăng lên.
Năm là, tái cơ cấu nền kinh tế còn chậm, một phần do ảnh hưởng từ dịch Covid-19 và phần khác do vẫn chưa quyết liệt, quyết tâm. Quá trình cơ cấu lại kinh tế giai đoạn 2016-2020 đã đạt kết quả tích cực hơn so với giai đoạn trước đó, dù vẫn chưa đạt kỳ vọng. Hiệu quả đầu tư công giai đoạn 2016-2019 cải thiện chưa đáng kể (hệ số ICOR là 6,13 lần, chỉ giảm nhẹ so với mức 6,25 lần của giai đoạn trước). Quá trình cổ phần hóa (CPH) và thoái vốn DNNN giai đoạn 2016-2020 vẫn chậm hơn so với kế hoạch đề ra, với 178 DN được cấp có thẩm quyền phê duyệt phương án CPH; tổng số tiền thoái vốn đạt 25.749 tỷ đồng, thu về 173.103 tỷ đồng. Như vậy, giá trị cổ phần Nhà nước bán được đạt 11%, cao hơn so với giai đoạn 2011-2015 (8%). Ngoài ra, việc xử lý 12 dự án thua lỗ, yếu kém còn chậm; một phần là do dịch Covid-19 khiến hoạt động của các dự án này trở nên khó khăn hơn. Cùng với đó, việc cơ cấu lại các tổ chức tín dụng yếu kém và xử lý nợ xấu (nhất là xử lý tài sản đảm bảo) vẫn còn khó khăn, chủ yếu do khâu phối kết hợp và yếu tố thị trường không mấy khả quan.
Sáu là, tính bền vững và năng lực chống chịu của nền kinh tế với các cú sốc bên ngoài còn mỏng. Thành tích xuất khẩu của Việt Nam năm 2020 là đáng ghi nhận (kim ngạch tăng 6,5%), nhưng chủ yếu lại là do khối doanh nghiệp FDI dẫn dắt, với mức tăng 9,7%, chiếm 72,2% (tỷ trọng tăng 2,1 điểm % so với năm trước), trong khi khu vực kinh tế trong nước giảm 1,1%, chiếm 27,8%. Điều này chứng tỏ doanh nghiệp FDI chịu đựng cú sốc tốt hơn và đang khai thác hiệu quả các FTA tốt hơn doanh nghiệp nội? Ngoài ra, dự trữ ngoại hối của Việt Nam dù tăng nhanh và đạt gần 100 tỷ USD (như NHNN công bố), nhưng cũng chỉ tương đương 3,7 tháng nhập khẩu, thấp hơn nhiều so với mức 7,5 tháng của ASEAN-4 và 14 tháng của Trung Quốc…, cho thấy rõ nhu cầu cần tăng dự trữ ngoại hối, trong khi việc Mỹ gắn mác "thao túng tiền tệ" có ảnh hưởng nhất định đến tiến trình tăng dự trữ ngoại hối này.
Triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2021
Mục tiêu tổng quát mà Đảng và Nhà nước đặt ra cho giai đoạn 2021-2025 là Việt Nam phấn đấu trở thành nước đang phát triển có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 5 năm khoảng 6,5-7%; GDP bình quân đầu người đến năm 2025 đạt 4.700-5.000 USD; chỉ số CPI bình quân tăng khoảng dưới 4%; tỷ trọng đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng khoảng 45%; tốc độ tăng năng suất lao động bình quân trên 6,5%/năm...
Năm 2021 là năm có nhiều ý nghĩa khi hệ thống chính trị tiếp tục được kiện toàn với việc tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, bầu cử Quốc hội khóa XV, đồng thời là năm đầu thực Kế hoạch phát triển KTXH 5 năm (2021-2025). Trong bối cảnh thế giới dự báo có nhiều biến động, đặc biệt là dịch Covid-19 còn phức tạp, khó lường, Nhóm chuyên gia Viện Đào tạo & Nghiên cứu BIDV cho rằng mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2021 của Việt Nam vẫn là: thực hiện thành công "mục tiêu kép" vừa phòng, chống dịch bệnh hiệu quả vừa phục hồi và phát triển KTXH trong trạng thái bình thường mới. Theo đó, dự báo một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô năm 2021 như sau.
Tăng trưởng GDP: năm 2021, các hoạt động kinh tế - xã hội được dự báo sẽ phục hồi mạnh hơn [tuy còn phụ thuộc vào 3 yếu tố: (i) khả năng kiểm soát dịch bệnh của thế giới và Việt Nam, (ii) hiệu quả của các gói hỗ trợ, và (iii) hợp tác quốc tế trong phòng chống dịch (gồm cả khâu sản xuất và phân phối vaccine) và khôi phục kinh tế]. Tăng trưởng GDP Việt Nam năm 2021 dự báo có thể đạt 6,5-7%, tương đồng với dự báo của các tổ chức quốc tế như nêu dưới đây:
Động lực tăng trưởng chính của Việt Nam năm 2021, về phía cung, cơ bản vẫn là ngành công nghiệp chế biến - chế tạo (dự báo tăng khoảng 10-11%, tương đương năm 2019), ngành xây dựng tăng khoảng 8-9% (gần bằng năm 2019) và ngành dịch vụ tăng khoảng 6-7% (gần bằng năm 2019).
Về lạm phát: áp lực lạm phát được dự báo sẽ tăng trong năm 2021 do tác động của đà hồi phục kinh tế, lộ trình tăng giá các mặt hàng do Nhà nước quản lý, độ trễ của chính sách tiền tệ - tài khóa mở rộng. Dự báo CPI bình quân năm 2021 sẽ tăng 3,5-3,7% so với năm 2020 (theo mô hình dự báo lạm phát của Viện ĐTNC BIDV, đây là mức thấp hơn mức dự báo hồi tháng 9/2020) song sẽ vẫn tăng 0,3-0,5 điểm % so với năm 2020. Vì vậy, để đảm bảo kiểm soát tốt lạm phát, cần chú trọng đảm bảo hiệu quả các gói hỗ trợ, tăng cường bình ổn giá, đảm bảo dân sinh và niềm tin người tiêu dùng (đặc biệt vào các dịp cao điểm mang tính mùa vụ) cũng như phối hợp, truyền thông chính sách tốt hơn.
Về cán cân ngân sách: để tiếp tục hỗ trợ phục hồi kinh tế và trang trải các khoản vay cũ, dự báo thâm hụt ngân sách và nợ công Việt Nam sẽ vẫn duy trì mức cao trong năm 2021 lần lượt ở mức 4% GDP và 56-58% GDP (GDP chưa đánh giá lại), song sẽ được kiểm soát theo hướng giảm dần qua từng năm trong giai đoạn 2021-2025. Dự báo thâm hụt ngân sách sẽ được kiểm soát ở mức dưới 3,5% trong giai đoạn 2021-2025 (theo GDP sau đánh giá lại) và nợ công giảm dần và ở mức 43-45%GDP vào năm 2025 (theo GDP đánh giá lại), tiệm cận mức nợ công bền vững theo khuyến cáo của IMF.
Một số khuyến nghị
Với kết quả đã đạt được trong năm 2020 vừa qua, trong bối cảnh kinh tế thế giới dù sẽ phục hồi, khả quan hơn nhưng còn nhiều bất định trong năm 2021, để bức tranh kinh tế Việt Nam tươi sáng hơn, phấn đấu đạt mục tiêu mà Quốc Hội và Chính phủ đề ra cho năm 2021, cần tập trung 8 giải pháp chính như sau:
Một là, năm 2021 cần tiếp tục thực hiện mục tiêu kép, kiên trì nhiệm vụ phòng chống dịch Covid-19 hiệu quả, phù hợp trong bối cảnh đại dịch còn diễn biến phức tạp trên phạm vi toàn cầu. Đồng thời, cần đẩy nhanh tiến độ triển khai các gói hỗ trợ; rà soát, mở rộng và kéo dài các gói hỗ trợ (nhất là đối với các lĩnh vực chịu tác động mạnh như du lịch, hàng không, bán lẻ…) để giúp doanh nghiệp vượt khó, cũng là nuôi dưỡng động lực phát triển kinh tế - xã hội và nguồn thu ngân sách lâu dài. Chú trọng khai thác các động lực tăng trưởng mới (như nêu dưới đây), phấn đấu đạt mức tăng trưởng 6,5-7%.
Hai là, chú trọng ổn định kinh tế vĩ mô thông qua: (i) nâng cao hiệu quả phối hợp chính sách, nhất là giữa chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa và giá cả nhằm kiểm soát lạm phát mục tiêu; (ii) theo sát, phân tích và dự báo diễn biến thị trường tài chính - tiền tệ quốc tế để sử dụng đồng bộ các công cụ chính sách nhằm ổn định thị trường; (iii) tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, phối kết hợp tốt với chính sách tài khóa thận trọng, thích ứng, đảm bảo ổn định lãi suất và tỷ giá góp phần kiềm chế lạm phát; và (iv) xây dựng lộ trình và thực thi kế hoạch tăng giá các mặt hàng do Nhà nước quản lý một cách phù hợp, hiệu quả, tránh cao điểm…
Ba là, sớm bắt tay triển khai các chiến lược, kế hoạch phát triển KTXH 5 năm đã đề ra; ưu tiên hoàn thiện thể chế như là một đột phá của năm 2021. Theo đó, năm 2021 cần ưu tiên hơn nữa khâu này, nhất là chú trọng nâng cao chất lượng và thực thi thể chế; hoàn thiện hành lang pháp lý thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, phát triển mạnh mẽ kinh tế tư nhân; và thể chế cho phát triển kinh tế số, mô hình kinh doanh mới, xã hội số, và phát triển bền vững (kinh tế xanh trên nền tảng đổi mới, sáng tạo; có giải pháp cụ thể, quyết liệt về bảo vệ môi trường và tăng năng lực ứng phó biến đổi khí hậu)…
Bốn là, nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế, thúc đẩy xuất khẩu và thu hút FDI: (i) thực thi hiệu quả nhằm tận dụng các cơ hội từ các FTA thế hệ mới; (ii) thực thi hiệu quả những định hướng, mục tiêu, giải pháp tại Nghị quyết 50 (2019) của Bộ Chính trị về định hướng, sàng lọc thu hút FDI đến năm 2030 nhằm tận dụng tốt hơn xu hướng dịch chuyển chuỗi cung ứng; (iii) tiếp tục đẩy mạnh cải thiện thực chất môi trường đầu tư - kinh doanh; và (iv) đẩy mạnh cải cách thể chế theo các cam kết hội nhập.
Năm là, tiếp tục thúc đẩy đầu tư công, góp phần tăng trưởng kinh tế và tạo nền tảng phát triển lâu dài: trong năm 2021, đầu tư công vẫn nên được xem như một giải pháp quan trọng để hỗ trợ nền kinh tế phục hồi sau dịch Covid-19; trong đó cần lưu ý tính hiệu quả và thực chất của việc giải ngân đầu tư công.
Sáu là, tiếp tục đẩy mạnh và quyết liệt, đồng bộ hơn các giải pháp cơ cấu lại nền kinh tế, nhằm đảm bảo việc phân bổ nguồn lực thực sự hiệu quả; lưu ý tính liên kết vùng; đồng thời tăng cường nội lực, nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế đối với các cú sốc bên ngoài. Theo đó, cần có kế hoạch, lộ trình và giải pháp phù hợp kiểm soát nợ xấu nội bảng dưới 3%, nợ xấu gộp dưới 5%; giảm dần nợ công (về khoảng 43-45% GDP), thâm hụt ngân sách (về mức dưới 3,5% GDP) và nghĩa vụ trả nợ dưới 25% thu NSNN đến cuối năm 2021-2022, cũng như tiếp tục tăng dự trữ ngoại hối phù hợp. Cần theo dõi, có kịch bản đối với rủi ro bất ổn tài chính toàn cầu, như Nhóm chuyên gia đã khuyến nghị tại Báo cáo công bố tháng 10/2020. Đồng thời, cần quyết tâm xây dựng và triển khai chiến lược phát triển kinh tế xanh, vừa đảm bảo yếu tố môi trường, vừa là nền tảng phát triển bền vững.
Bảy là, đẩy mạnh phát triển kinh tế số, nhất quán thực hiện tốt Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 (Chương trình 749); trong đó, hết sức chú trọng nâng cấp hạ tầng số, đẩy mạnh chính quyền điện tử, hoàn thiện cơ sở dữ liệu định danh cá nhân và doanh nghiệp, và tăng năng lực an toàn thông tin, dữ liệu, an ninh mạng.
Tám là, hết sức chú trọng tạo điều kiện phát triển mạnh mẽ lực lượng doanh nghiệp: cần đẩy nhanh thực hiện hiệu quả các gói hỗ trợ, sớm ban hành gói hỗ trợ bổ sung (nhất là hỗ trợ các lĩnh vực du lịch, hàng không…); tăng tính gắn kết giữa các khối doanh nghiệp (trong nước với FDI, lớn với nhỏ); áp dụng chuẩn mực quản trị theo thông lệ; nâng đỡ, khuyến khích để các hộ gia đình chuyển đổi thành doanh nghiệp siêu nhỏ; đồng thời, tạo điều kiện để xây dựng một số doanh nghiệp lớn (đầu đàn) dẫn dắt, đi đầu trong đổi mới, sáng tạo, kết nối các chuỗi giá trị.