Chủ nhật, 29/09/2024
   

Thực trạng xử lý nợ xấu và tài sản đảm bảo theo Nghị quyết 42/2017/QH14 tại thành phố Hồ Chí Minh - Một số đề xuất, giải pháp

Nghị quyết số 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD, có hiệu lực từ ngày 15/8/2017 và được thực hiện trong thời hạn 5 năm từ ngày có hiệu lực thi hành. Tuy nhiên, do văn bản hướng dẫn cụ thể các chính sách quy định tại Nghị quyết 42 chưa đầy đủ và một số chính quyền địa phương chưa

Nghị quyết số 42/2017/QH14 điều chỉnh quy định thí điểm một số chính sách về xử lý nợ xấu, xử lý tài sản đảm bảo (TSĐB) của khoản nợ xấu của các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mà Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ do Chính phủ thành lập để xử lý nợ xấu của TCTD; quyền, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc xử lý nợ xấu và xử lý TSĐB của khoản nợ xấu của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mà Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ do Chính phủ thành lập để xử lý nợ xấu của các TCTD.

Để xác định rõ phạm vi điều chỉnh, Nghị quyết số 42/2017/QH14 đã quy định cụ thể tiêu chí, phạm vi, cách thức xác định một khoản nợ là nợ xấu được áp dụng các chính sách theo quy định.

I. Kết quả triển khai thực hiện nhiệm vụ được phân công của Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh TP. Hồ Chí Minh về Đề án cơ cấu lại các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giaiđoạn 2016- 2020 trên địa bàn thành phố

1. Sơ lược kết quả triển khai Nghị quyết 42

Để triển khai Nghị quyết 42, NHNN CN TP.HCM đã tham mưu cho Ủy ban nhân dân TPHCM ban hành Kế hoạch số 6840/KH-UBND ngày 31/10/2017 triển khai thực hiện Quyết định số 1058/QĐ-TTg ngày 19 tháng 7 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020” trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.

Trong đó, có xác định mục tiêu, phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng sở, ngành của Thành phố để đảm bảo triển khai thực hiện hiệu quả trên địa bàn. NHNN CN TP.HCM có văn bản số 2854/HCM-TH-KSNB ngày 02/10/2020 về việc đẩy mạnh công tác xử lý nợ xấu theo Nghị quyết số 42 gửi các TCTD trên địa bàn TP. HCM, tại văn bản này NHNN CN TP. HCM đã chỉ đạo các TCTD tiếp tục thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm nhằm thực hiện tốt nhất được Nghị quyết số 42 tại đơn vị.

2. Kết quả xử lý nợ xấu

a. Trên phạm vi cả nước:

- Lũy kế từ 15/8/2017 đến 31/12/2020, toàn hệ thống đã xử lý được 331,87 nghìn tỷ đồng nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 421, trong đó xử lý nợ xấu nội bảng (không bao gồm xử lý bằng sử dụng dự phòng rủi ro và bán nợ cho VAMC thông qua phát hành trái phiếu đặc biệt (TPĐB) chiếm tỷ trọng khoảng 53 % tổng nợ xấu đã xử lý, xử lý nợ xấu ngoại bảng khoảng 47% tổng nợ xấu đã xử lý.

- Tổng số nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 42 được xử lý từ 15/8/2017 đến 31/12/2020 đạt trung bình khoảng 8,09 nghìn tỷ đồng/tháng, cao hơn 4,57 nghìn tỷ đồng/tháng so với kết quả xử lý nợ xấu nội bảng trung bình tháng từ năm 2012 - 2017 của hệ thống các TCTD trước khi Nghị quyết số 42 có hiệu lực (khoảng 3,52 nghìn tỷ đồng/tháng).

b.Trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh:

Từ 15/8/2017 đến 31/12/2020, tổng nợ xấu đã xử lý theo Nghị quyết số 42 chiếm khoảng 60% tổng số nợ xấu trong phạm vi cả nước. Theo đó, chủ yếu là xử lý các khoản nợ hạch toán nội bảng bằng hình thức khách hàng trả nợ là chủ yếu, còn lại việc xử lý khoản nợ theo phương án bán cho VAMC, chiếm khoảng40% tổng số nợ xấu xử lý theo Nghị quyết số 42.

II. Mặt được, chưa được, khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết 42

1. Mặt được

Không bao gồm nợ xấu xử lý bằng sử dụng dự phòng rủi ro.

- Thể hiện sự quyết tâm của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan ban ngành thông qua Chỉ thị của Thủ tướng cũng như các văn bản của các Bộ/Ngành trong việc triển khai Nghị quyết nhằm hỗ trợ các TCTD trong hoạt động xử lý nợ xấu.

- Nghị quyết 42 là cơ sở pháp lý quan trọng, các quy định tại Nghị quyết 42/2017/QH14 cũng giúp giảm bớt các thủ tục tố tụng, thủ tục hành chính cũng như giảm thiểu thời gian xử lý thu hồi nợ xấu cho TCTD; tạo hành lang pháp lý cho hoạt động xử lý nợ xấu cho các tổ chức tín dụng; Toà án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn triển khai một số nội dung quy định của Nghị quyết 42 (Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong giải quyết tranh chấp về xử lý nợ xấu, tài sản đảm bảo của khoảnnợ xấu tại Toà án nhân dân. Nghị quyết có hiệu lực thi hành kể từ ngày01/7/2018 đến ngày Nghị quyết 42/2017/QH14 hết hiệu lực thi hành).

- Nghị quyết 42 cho phép các TCTD có cơ chế về tài chính, xử lý các vấn đề vướng mắc về tài chính, hạch toán kế toán liên quan đến xử lý nợ xấu;

- Các biện pháp xử lý nợ cũng được Nghị quyết đa dạng hóa. Cho phép các thành phần kinh tế tham gia công tác xử lý nợ xấu;

2. Mặt chưa được

Việc xử lý nợ xấu (từ 15/8/2017 đến nay) của các TCTD trên phạm vi cả nước nói chung và trên địa bàn TP.Hồ Chí Minh nói riêng vẫn chủ yếu theo phương thức thông thường (đôn đốc kế hoạch trả nợ và sử dụng dự phòng rủi ro).

Nguyên nhân chủ yếu là do văn bản hướng dẫn cụ thể các chính sách quy định tại Nghị quyết 42 chưa đầy đủ và một số chính quyền địa phương chưa hỗ trợ ngân hàng trong việc thu giữ tài sản, từ đó kết quả đạt được của việc xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42 chưa toàn diện.

3. Khó khăn, vướng mắc

Qua quá trình thực hiện các biện pháp xử lý nợ xấu của các TCTD trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh theo Nghị quyết 42 ngoài những thành tựu đạt còn có một số khó khăn, vướng mắc như sau:

Thứ nhất, khó khăn, vướng mắc liên quan đến công tác triển khai, hướng dẫn từ các bộ, ngành và địa phương:

Đến nay, về cơ bản, các bộ ngành, địa phương liên quan đã ban hành các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 42 theo thẩm quyền được giao. Tuy nhiên, tại một số địa phương, công tác thu giữ TSBĐ còn nhiều khó khăn do các cấp cơ sở chưa được tập huấn Nghị quyết số 42. Ngoài ra, trong quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước, việc thừa kế nghĩa vụ trả nợ giữa pháp nhân mới thành lập và pháp nhân cũ chưa được đồng bộ, một số trường hợp cá biệt pháp nhân mới không thừa nhận nghĩa vụ thanh toán nợ (đã là nợ xấu) của pháp nhân cũ dẫn đến tranh chấp kéo dài tại Toà án.

Thứ hai, về bán nợ xấu và TSBĐ theo giá trị thị trường, phát triển thị trường mua bán nợ (Điều 5 Nghị quyết số 42):

Theo quy định tại Điều 5 Nghị quyết số 42, TCTD, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu bán nợ xấu, TSBĐ của khoản nợ xấu công khai, minh bạch, theo quy định của pháp luật; giá bán phù hợp với giá thị trường, có thể cao hơn hoặc thấp hơn dư nợ gốc của khoản nợ. Tuy nhiên, việc phát triển thị trường mua, bán nợ hiện vẫn còn gặp một số khó khăn như:

- Về đối tượng tham gia thị trường mua bán nợ: Việc mua bán nợ xấu chủ yếu diễn ra giữa TCTD và 02 đơn vị mua nợ chính là VAMC và DATC, thiếu những nhà đầu tư khác trong nước và nước ngoài. Nguyên nhân do: (i) Điều kiện kinh doanh dịch vụ mua bán nợ phức tạp, yêu cầu về vốn cao; (ii) Nghị định 69/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 về điều kiện dịch vụ mua bán nợ chưa quy định rõ đầu mối tạo lập, phát triển thị trường giao dịch mua bán nợ, (iii) Đội ngũ môi giới mua, bán nợ chuyên nghiệp còn thiếu.

- Thiếu thị trường thứ cấp và phái sinh đối với các khoản nợ: Sau khi mua các khoản nợ, bên mua nợ thực hiện quản lý, khai thác và vận hành TSBĐ cũng như quản lý rủi ro thanh khoản liên quan tới các TSBĐ này. Tuy nhiên, việc chuyển nhượng hoặc uỷ thác quản lý các khoản nợ này còn khó khăn vì chưa có thị trường nợ thứ cấp. Đồng thời, hiện tại chưa có các hoạt động phái sinh như nghiệp vụ chứng khoán hoá tài sản, chứng khoán hoá nợ thường và nợ xấu. Điều này dẫn đến thanh khoản của các khoản nợ rất thấp, làm giảm mức độ hấp dẫn của các khoản nợ đã mua.

- Về xác định giá trị khoản nợ làm căn cứ để mua, bán nợ: Việc thẩm định giá khoản nợ đang được các tổ chức thẩm định giá áp dụng thê Hệ thống tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam (được áp dung chung cho thẩm định giá các loại tài sản) nên khi định giá các khoản nợ đôi khi việc vận dụng của các tổ chức thẩm định giá là khác nhau, gây khó khan cho các bên trong việc lựa chọn mức giá tham khảo làm cơ sở xác định mức giá khởi điểm trong giao dịch mua bán nợ.

Thứ ba, về cơ chế tiếp cận thông tin về tình trạng TSBĐ (Điều 7 Nghị quyết số 42):

Khoản 2 Điều 7 Nghị quyết số 42 quy định một trong các điều kiện để thu giữ TSBĐ là “TSBĐ không phải là tài sản tranh chấp trong vụ án đã được thụ lý nhưng chưa được giải quyết hoặc đang được giải quyết tại Toà án có thẩm quyền; không đang bị Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; không đang bị kê biên hoặc áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án theo quy định của pháp luật”. Tuy nhiên, hiện Toà án, cơ quan THADS không có hệ thống dữ liệu cho phép các TCTD trích xuất, tra cứu thông tin tài sản có liên quan đến vụ việc đang được thụ lý giải quyết. Đồng thời, cũng chưa có hướng dẫn về cơ chế xác định sớm hữu hiệu trong quá trình thẩm định để xác định tài sản nào đang tranh chấp, tài sản nào đang phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, dẫn đến cách hiểu về tài sản tranh chấp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng tại nhiều nơi, nhiều cấp khác nhau, gây khó khăn khi áp dụng các biện pháp xử lý tài sản theo Nghị quyết số 42.

Thứ tư, về quyền thu giữ TSBĐ (Điều 7 Nghị quyết số 42):

Điều 7 Nghị quyết số 42 cho phép các TCTD có quyền thu giữ TSBĐ của khoản nợ xấu, phát đi thông điệp bảo vệ quan hệ có vay - có trả, khẳng định quyền của chủ nợ, là điều mà các TCTD mong mỏi. Tuy nhiên, để thực hiện được quyền này, các TCTD vẫn cần đến sự hỗ trợ của cơ quan công an các cấp.

Đến nay, mặc dù Bộ công an đã có văn bản hướng dẫn về việc hỗ trợ đảm bảo an ninh trật tự trong quá trình thu giữ. Nhưng trên thực tế, việc thu giữ TSBĐ hiện nay vẫn phụ thuộc khá nhiều vào thiện chí của bên vay (đặc biệt trong trường hợp khách hàng không hợp tác, cố ý chây ỳ trong việc bàn giao TSBĐ).
Đồng thời, sự phối hợp của các cơ quan hữu quan tại địa phương trong một số trường hợp chưa kịp thời (như xác minh thông tin khách hàng, hỗ trợ thu giữ TSBĐ)… cũng làm ảnh hưởng đến công tác xử lý thu hồi nợ xấu.

Ngoài ra, theo quy định tại Điều 7 Nghị quyết số 42, một trong các điều kiện để TCTD có quyền thu giữ TSBĐ là “Tại hợp đồng bảo đảm có thoả thuận về việc bên bảo đảm đồng ý cho TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có quyền thu giữ TSBĐ của khoản nợ xấu khi xảy ra trường hợp xử lý TSBĐ theo quy định của pháp luật”. Tuy nhiên, trên thực tế nhiều Hợp đồng bảo đảm ký trước thời điểm Nghị quyết số 42 có hiệu lực không có nội dung trên và khách hàng không hợp tác với TCTD trong việc ký văn bản bổ sung nội dung này vào Hợp đồng bảo đảm. Do đó, đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến TCTD gặp khó khăn khi tiến hành thu giữ TSBĐ theo Nghị quyết số 42, đặc biệt trong trường hợp khách hàng không hợp tác với TCTD2.

Thứ năm, về áp dụng thủ tục rút gọn trong giải quyết tranh chấp về nghĩa vụ giao TSBĐ và xử lý TSBĐ (Điều 8 Nghị quyết số 42):

Triển khai thực hiện biện pháp quy định tại Khoản 1 Điều 8 Nghị quyết số 42, Hội đồng thẩm phán đã ban hành Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng thủ tục rút gọn trong giải quyết tranh chấp về nghĩa vụ giao TSBĐ, tranh chấp về quyền xử lý TSBĐ của khoản nợ xấu của TCTD, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu; một số quy định của pháp luật trong giải quyết các tranh chấp về xử lý nợ xấu, TSBĐ của khoản nợ xấu theo quy định của Nghị quyết số 42. Tuy nhiên, hiện nay, số lượng các vụ việc xử lý nợ xấu thông qua thủ tục rút gọn tại Toà án còn rất hạn chế, điều này phần nào ảnh hưởng đến kết quả xử lý nợ xấu nói chung, cũng như hiệu quả của biện pháp quy định tại Khoản 1 Điều 8 Nghị quyết số 42 nói riêng.

Nguyên nhân của thực trạng trên là theo quy định tại Khoản 3 Điều 317 về điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn và Khoản 4 Điều 323 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm theo thủ tục rút gọn thì trong giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ án theo thủ tục rút gọn, nếu xuất hiện tình tiết mới mà các bên đương sự không thống nhất làm cho vụ án không đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục rút gọn theo Khoản 1 Điều 8 Nghị quyết số 42 thì Toà án phải ra quyết định chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục thông thường. Như vậy, trường hợp bên có nghĩa vụ trả nợ/chủ tài sản/bên bảo đảm không hợp tác, chống đối, rất đễ dẫn đến trường hợp cố tình tạo ra các tình tiết mới làm cho vụ án không còn đảm bảo điều kiện quy định tại Khoản 1 Điều 8 Nghị quyết số 42 để đưa vụ án về thủ tục tố tụng thông thường, nhằm mục đích kéo dài thời gian giải quyết vụ việc, dẫn đến việc áp dụng thủ tục tố tụng rút gọn có thể không phát huy được hiệu quả xử lý trong thực tế.

Ngân hàng Nhà nước đã có Công văn số 8424/NHNN-TTGSNH ngày 07/11/2018 gửi Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nội dung đề nghị Chủ tịch UBND tăng cường chỉ đạo các cấp chính quyền địa phương và các cơ quan có liên quan tạo điều kiện thuận lợi cho các TCTD trên địa bàn trong việc xử lý nợ xấu, xử lý tài sản đảm bảo của các khoản nợ xấu. Tại địa bàn TP.Hồ Chí Minh, UBND thành phố đã có Công văn số 5616/UBND-KT ngày 14/12/2018 chi đạo các Sở ban ngành trên địa bàn tạo điều kiện cho các TCTD trên địa bàn trong việc xử lý nợ xấu, xử lý tài sản đảm bảo của các khoản nợ xấu.

Thứ sáu, về đăng ký thay đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là TSBĐ của khoản nợ xấu (Khoản 4 Điều 9 Nghị quyết số 42):

- Điểm c Khoản 5 Điều 9 Thông tư 24/2014/TT-BTNMT ngày 19/5/2014 về hồ sơ địa chính quy định: “Hồ sơ nộp khi thực hiện thủ tục đăng ký biến động quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất trong các trường hợp giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai…,văn bản bàn giao tài sản thế chấp, góp vốn theo thoả thuận…”.

- Khoản 8 Điều 7 Thông tư số 33/2017/TT-BTNMT ngày 29/9/2017 (sửa đổi, bổ sung một số nội dung tại Thông tư 24/2014/TT-BTNMT) quy định về bổ sung Điều 9b Thông tư số 24 quy định về đăng ký quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất cho tổ chức mua bán nợ theo quy định tại Nghị quyết số 42 có quy định: “Hồ sơ nộp khi thực hiện thủ tục đăng ký biến động quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất bao gồm…, đ) Văn bản về việc bàn giao tài sản mua bán nợ…”.

Căn cứ quy định nêu trên, các Văn phòng đăng ký đất đai yêu cầu TCTD/tổ chức mua bán nợ phải cung cấp văn bản về việc bàn giao tài sản thế chấp hoặc văn bản về việc bàn giao tài sản mua bán nợ (đối với tổ chức mua bán nợ). Tuy nhiên, trên thực tế, trong quá trình xử lý nợ xấu, hầu hết các chủ tài sản đều chống đối, không hợp tác nên các TCTD/tổ chức mua bán nợ không thể lập được văn bản bàn giao tài sản thế chấp/văn bản về việc bàn giao tài sản mua bán nợ mà phải tiến hành thu giữ theo quy định tại Điều 7 Nghị quyết số 42 và lập Biên bản thu giữ TSBĐ có sự chứng kiến của UBND cấp xã nơi tiến hành thu giữ. Do đó, TCTD, tổ chức mua bán nợ đề xuất sử dụng Biên bản thu giữ thay cho văn bản về việc bàn giao tài sản thế chấp/văn bản về việc bàn giao tài sản mua bán nợ nhưng không được Văn phòng đăng ký đất đai chấp thuận. Từ đó dẫn đến các bên liên quan không thực hiện được việc chuyển quyền sở hữu, sử dụng tài sản cho bên mua tài sản.

Thứ bảy, về điều kiện chuyển nhượng TSBĐ là dự án bất động sản (Điều 10 Nghị quyết số 42):

Theo quy định tại Điều 10 Nghị quyết số 42, điều kiện chuyển nhượng TSBĐ của khoản nợ xấu là dự án bất động sản không bắt buộc phải có Giấy chứng nhận. Tuy nhiên, Điểm b Khoản 2 Điều 194 Luật đất đai năm 2013 quy định “Đối với các dự án đầu tư xây dựng kinh doanh nhà ở thì được chuyển nhượng quyền sử dụng đất gắn với việc chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần dự án khi đã có Giấy chứng nhận”. Mặc dù Khoản 2 Điều 17 Nghị quyết số 42 về áp dụng luật quy định trường hợp có quy định khác nhau giữa Nghị quyết này và luật khác về cùng một vấn đề về xử lý nợ xấu và xử lý TSBĐ của khoản nợ xấu thì áp dụng quy định của Nghị quyết số 42, nhưng trên thực tế, việc chuyển nhượng các dự án chưa có Giấy chứng nhận vẫn gặp phải khó khăn khi tiến hành các thủ tục chuyển nhượng dự án tại các cơ quan có thẩm quyền.

Thứ tám, về việc thực hiện thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý TSBĐ và việc nộp thuế khi chuyển nhượng TSBĐ (Điều 12, Nghị quyết số 42):

Theo quy định tại Nghị quyết số 42, số tiền thu được từ xử lý TSBĐ của khoản nợ xấu được ưu tiên thanh toán cho nghĩa vụ nợ được bảo đảm của TCTD trước khi thực hiện nghĩa vụ không có bảo đảm của bên bảo đảm (như nghĩa vụ thuế, án phí…). Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện, NHNN tiếp tục nhận được kiến nghị của các TCTD phản ánh về việc phải nộp các khoản thuế trước khi thực hiện nghĩa vụ ưu tiên thanh toán cho bên nhận bảo đảm là các TCTD đã làm giảm số tiền thu hồi nợ của TCTD, nhiều trường hợp số tiền bán TSBĐ không đủ thu hồi nợ cho TCTD nhưng vẫn phải nộp thuế, gây khó khan cho cả bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm, ảnh hưởng lớn đến quyền lợi chủ nợ có bảo đảm của TCTD. Ngoài ra, TCTD cũng phản ánh việc nội dung hướng dẫn của Tổng cục THADS về việc thực hiện thứ tự ưu tiên thanh toán án phí trong các vụ việc thi hành án tín dụng (theo quy định tại  iều 47 Luật THADS) chưa có sự thống nhất với quy định tại Điều 12 Nghị quyết số 42 về thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý TSBĐ dẫn đến khó khan cho TCTD khi xử lý TSBĐ3.

Thứ chín, về việc hoàn trả TSBĐ là vật chứng trong vụ án hình sự (Điều 14 Nghị quyết số 42):

Theo Điều 14 Nghị quyết số 42, hiện chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào giải thích cụ thể, thế nào là “ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án và thi hành án”. Do đó, việc có hoàn trả vật chứng trong vụ án hình sự là TSBĐ của khoản nợ xấu hay không sẽ phụ thuộc nhiều vào quan điểm của cơ quan tiến hành tố tụng.

Thứ mười, về công tác phối hợp trong hoạt động thi hành án dân sự:

Mặc dù đã có quy chế phối hợp số 01/QCLN/NHNNVN-BTP ngày 18/3/2015 về việc phối hợp giữa NHNN và Bộ tư pháp về hoạt động THADS và Bộ tư pháp cũng thường xuyên chỉ đạo, triển khai thực hiện kịp thời công tác phối hợp trong hoạt động thi hành án dân sự. Tuy nhiên tại một số địa phương do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau, hoạt động thi hành án ngân hàng còn chưa thực sự hiệu quả, việc kê biên, bán đấu giá, cưỡng chế bàn giao tài sản cho người mua đấu giá thành công còn chậm, nhiều vụ việc kéo dài.

Nhiều vụ việc thi hành án còn tồn đọng thời gian dài, phát sinh nhiều chi phí cho đơn vị xử lý nợ.

III. Giải pháp và đề xuất kiến nghị

1. Giải pháp

Trong bối cảnh diễn biến phức tạp của dịch bệnh Covid 19, các TCTD cần tiếp tục phát huy tốt vai trò là kênh dẫn vốn chủ đạo và đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh, tuy nhiên, các TCTD phải đồng thời đảm bảo công tác xử lý nợ xấu theo Nghị quyết số 42 được triển khai có hiệu quả trên NHNN đã có Công văn số 270/NHNN-PC ngày 10/01/2019 gửi Tòa án nhân dân tối cao đề nghị chỉ đạo Toà án nhân dân các cấp triển khai thi hành quy định về thủ tục rút gọn trong xét xử các vụ án theo quy định của Nghị quyết 42/2017/QH14 và Nghị quyết 03/2018/NQ-HĐTP và phối hợp với Cơ quan Thi hành án xây dựng hệ thốngdữ liệu liên quan đến các vụ việc đang được thụ lý và cho phép các TCTD được tra cứu, trích xuất các thông tin liên quan từ hệ thống dữ liệu này.

Ngân hàng Nhà nước đã có Công văn số 272/NHNN-PC ngày 10/01/2019 gửi Bộ Tư pháp về việc xử lý kiến nghị về thuế với quan điểm “Cơ quan thuế phải yêu cầu bên bảo đảm có trách nhiệm sử dụng nguồn tài chính khác để thực hiện nghĩa vụ thuế của mình mà không sử dụng số tiền thu được từ xử lý tài sản đảm bảo của khoản nợ xấu để thanh toán cho nghĩa vụ thuế thu nhập cá nhân khi chuyển nhượng nếu số tiền thu được không đủ để trả nợ cho tổ chức tín dụng”.

Để đạt được điều đó, NHNN CN TP.HCM đề xuất một số nội dungcụ thể:

- Chính phủ sớm ban hành các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn cụ thể nhằm hỗ trợ các TCTD triển khai có hiệu quả Nghị quyết số 42 và chỉ đạo các cấp hỗ trợ tối đa cho các TCTD trong quá trình xử lý TSBĐ, thu hồi nợ.

- Giải quyết dứt điểm, khó khăn, vướng mắc về cơ chế cũng như trong thực tế áp dụng Nghị quyết số 42; trong đó bao gồm các khó khan, vướng mắc cụ thểliên quan đến (i) Công tác triển khai, hướng dẫn từ các Bộ, ngành và địa phương; (ii) Bán nợ xấu và TSBĐ theo giá trị thị trường, phát triển thị trường mua bán nợ; (iii) Cơ chế tiếp cận thông tin về tình trạng TSBĐ; (iv) Quyền thu giữ TSBĐ; (v) Áp dụng thủ tục rút gọn trong giải quyết tranh chấp về nghĩa vụgiao TSBĐ và xử lý TSBĐ; (vi) Đăng ký thay đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là TSBĐ của khoản nợ; (vii) Điều kiện chuyển nhượng TSBĐ là dự án bất động sản…

- Đẩy mạnh hơn nữa quá trình phân loại, sắp xếp doanh nghiệp trong tâm là các doanh nghiệp nhà nước, thực hiện tái cơ cấu, nâng cao năng lực tài chính, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, tạo điều kiện để hệ thống các TCTD xử lý nợ xấu, lành mạnh hoá tài chính. Các bộ chủ quản chỉ đạo các tập đoàn, Tổng công ty, đơn vị thành viên thực hiện nghĩa vụ trả nợ/nghĩa vụ bảo lãnh đối với các khoản vay tại các TCTD mà các đơn vị đứng ra bảo lãnh cho các công ty con, công ty thành viên.

2. Đề xuất, kiến nghị

- Các Bộ, Ngành liên quan cần có văn bản có hướng dẫn cụ thể, chi tiết và đồng bộ việc triển khai Nghị quyết 42/2017/QH14 (Bộ Công an, Bộ Tài Nguyên và Môi Trường, Bộ Tài Chính, Bộ Tư Pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Tổng Cục thuế, UBND các cấp,...) để việc thực hiện được thông suốt.

- Quy định cơ chế giải quyết các vấn đề phát sinh nhằm đảm bảo an ninh, trật tự, an toàn xã hội của chính quyền địa phương các cấp và Cơ quan Công an nơi tiến hành thu giữ tài sản đảm bảo trong suốt quá trình TCTD tiến hành thu giữ tài sản đảm bảo tại địa phương, ban hành quy định hướng dẫn cụ thể đến UBND/Công an cấp phường/xã có “trách nhiệm và nghĩa vụ” trong việc triển khai cán bộ, nhân sự và các biện pháp để hỗ trợ ngân hàng tổ chức thu giữ TSĐB khi có đề nghị của ngân hàng theo Nghị quyết 42.

- Cần có hướng dẫn cụ thể Điểm b, Khoản 2, Điều 7 của Nghị Quyết 42/2017/QH14 “b) Tại hợp đồng bảo đảm có thỏa thuận về việc bên bảo đảm đồng ý cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có quyền thu giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu khi xảy ra trường hợp xử lý tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật”. Trong đó, giải thích rõ thỏa thuận về quyền thu. Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh đã có Công văn số 548/HCM-TH-KSNB ngày03/3/2020 triển khai Công văn số 1248/NHNN-TTGSNH ngày 02/3/2020 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phối hợp với lực lượng Công an trong công tác đảm bảo an ninh, trật tự khi thu giữ TSĐB theo Nghị quyết 42, theo đó tổ chức thu giữ TSĐB (TCTD, VAMC) có văn bản đề nghị gửi Phòng ANKT-Công an tỉnh/thànhphố để phối hợp thực hiện giữ tài sản đảm bảo theo Hợp đồng bảo đảm là như thế nào để có cơ sở choTCTD áp dụng đúng quy định.

- Cần có văn bản hướng dẫn rõ việc xác định tài sản như thế nào là không tranh chấp theo Nghị quyết 42/2014/QH14.

- Cần có đường dây nóng trợ giúp của Cơ quan Thi hành án, Công an, Toà án và Viện Kiểm sát,... trong việc thực hiện Nghị quyết 42/2014/QH14.

- Việc áp dụng thủ tục rút gọn trong tố tụng tại Tòa án theo Điều 8 Nghị quyết 42: Toà án đã ban hành hướng dẫn tuy nhiên cần có thêm những văn bản hướng dẫn cụ thể hơn nữa về Nghị quyết 42 và các giai đoạn xử lý như: Hướng dẫn xử lý khi gặp những vướng mắc trong quá trình thu giữ tài sản do KH không hợp tác (hướng dẫn từ Cơ quan ban hành, Cơ quan Công an, chính quyền địa phương,...).

- Các khoản nợ xấu có tài sản bảo đảm là các dự án đang dở dang có giá trị lớn, chiếm tỷ trọng cao trong tổng các khoản nợ, khó xử lý để thu hồi nợ vay. Một số đối tác muốn nhận chuyển nhượng lại dự án nhưng đề nghị Ngân hàng có cơ chế chính sách về mua trả chậm không lãi suất hoặc được thế chấp lại được tài trợ vốn với lãi suất ưu đãi.

- Hoàn thiện chính sách thuế liên quan đến việc bán TSĐB ưu tiên thanh toán các nghĩa vụ trả nợ khác không tài sản đảm bảo, thủ tục sang tên cho bên mua được tài sản không phụ thuộc nghĩa vụ thuế của bên bán tài sản xử lý nợ xấu.

- Ngân hàng Nhà nước đã có Công văn số 273/NHNN-PC ngày 10/01/2019 gửi Bộ Tài chính nội dung đề nghị Bộ Tài chính xem xét, nghiên cứu, bổ sung trường hợp sang tên, đăng ký quyền sử dụng, quyền sở hữu bất động sản liên quan đến việc xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng vào trường hợp tạm thời chưa thu

- Cần quy định cơ quan thuế/cơ quan đăng ký có trách nhiệm cập nhật/đăng ký quyền sở hữu đối với TSĐB xử lý nợ xấu, kể cả trường hợp TSĐB sau khi xử lý không đủ thanh toán nợ cho ngân hàng thì ngân hàng/bên mua trúng đấu giá vẫn không phải đóng thuế TNCN/thuế chuyển quyền sử dụng đất.

Tính lãi tiền gửi
VNĐ
%/year
month
Tính lãi tiền gửi

Tính toán khoản vay
VNĐ
%/year
month
Tính toán khoản vay