Chủ nhật, 22/12/2024
   

Những khó khăn, vướng mắc của TCTD trong giải quyết tranh chấp về tín dụng liên quan đến Viện Kiểm sát Nhân dân

Bà Nguyễn Thị Phương, Phó Chủ nhiệm Câu lạc bộ Pháp chế Ngân hàng (Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam) đã trình bày tham luận về những khó khăn, vướng mắc của tổ chức tín dụng (TCTD) liên quan đến Viện Kiểm sát Nhân dân.

Ngày 21/4/2023, Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam phối hợp với Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tổ chức Hội thảo "Hoạt động kiểm sát việc giải quyết các vụ án kinh doanh, thương mại trong lĩnh vực tranh chấp hợp đồng tín dụng.

Hội thảo “Hoạt động kiểm sát việc giải quyết các vụ án kinh doanh, thương mại trong lĩnh vực tranh chấp hợp đồng tín dụng”

Bà Nguyễn Thị Phương, Phó Chủ nhiệm Câu lạc bộ Pháp chế Ngân hàng (Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam) đã trình bày tham luận về những khó khăn, vướng mắc của tổ chức tín dụng (TCTD) liên quan đến Viện Kiểm sát Nhân dân.

Trang tin Điện tử VNBA trân trọng đăng tải toàn văn tham luận:   

-----------------

THAM LUẬN

Những khó khăn và vướng mắc của tổ chức tín dụng trong quá trình giải quyết các tranh chấp về tín dụng liên quan đến Viện kiểm sát nhân dân

Căn cứ phản ánh của các Tổ chức tín dụng (TCTD) hội viên, Hiệp hội Ngân hàng tổng hợp những vướng mắc, bất cập trong quá trình thực hiện thủ tục tố tụng và giải quyết tranh chấp tại tòa án có liên quan đến Viện kiểm sát nhân dân và kiến nghị, đề xuất như sau:

I. Hiệu quả công tác hỗ trợ của Hệ thống Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) đối với hoạt động giải quyết tranh chấp Hợp đồng tín dụng của các TCTD trong thời gian qua

Hiện nay Viện kiểm sát nhân dân các cấp đang thực hiệc việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng căn cứ theo:

- Khoản 1 Điều 107 Hiến pháp năm 2013 Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan nhà nước có nhiệm vụ thực hiện quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp;

- Điều 4 và Điều 27 của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động kiểm sát tư pháp;

- Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định về vị trí, vai trò của Viện kiểm sát trong việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự; thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật.

Như vậy chức năng kiểm sát của Viện kiểm sát các cấp đã được Hiến pháp và pháp luật công nhận, có vai trò vô cùng quan trọng trong hoạt động giải quyết các vụ án tranh chấp dân sự, kinh doanh, thương mại nói chung và tranh chấp hợp đồng tín dụng nói riêng.

Tranh chấp dân sự, kinh doanh thương mại trong lĩnh vực tín dụng, ngân hàng chủ yếu liên quan đến tranh chấp hợp đồng cấp tín dụng bao gồm Hợp đồng tín dụng, Hợp đồng cấp bảo lãnh (“HĐTD”), hợp đồng cầm cố, thế chấp (“HĐBĐ”) và là một trong những dạng tranh chấp phổ biến hiện nay được giải quyết tại Tòa án nhân dân các cấp và hệ thống Trọng tài thương mại (Sau đây gọi chung là “tranh chấp HĐTD”). Thông thường khi xảy ra tranh chấp HĐTD, nếu các bên không thể thỏa thuận, thương lượng được thì tranh chấp sẽ được đưa ra giải quyết tại Tòa án có thẩm quyền theo quy định của pháp luật và Trọng tài thương mại theo thỏa thuận của các bên. Do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, hiện nay, cơ chế giải quyết tranh chấp HĐTD qua Trọng tài thương mại còn rất nhiều hạn chế và các TCTD còn nhiều e ngại trong việc lựa chọn cơ chế tài phán này. Theo đó, việc giải quyết tranh chấp HĐTD tại Tòa án vẫn được sử dụng là kênh chính thức, chủ yếu và được đánh giá là một trong các biện pháp hữu hiệu để thu hồi nợ cho các Tổ chức tín dụng. Và khi tranh chấp HĐTD được giải quyết qua hệ thống Tòa án thì đương nhiên sẽ gắn với quá trình tham gia của hệ thống ngành kiểm sát các cấp tùy theo phân cấp thẩm quyền để bảo đảm quy định của pháp luật có liên quan như đã nêu ở trên. Quá trình giải quyết các vụ án kinh doanh thương mại trong lĩnh vực tranh chấp hợp đồng tín dụng bên cạnh thuận lợi rất lớn là đã có một hệ thống quy định pháp luật tương đối hoàn chỉnh; hệ thống án lệ về tài chính-ngân hàng ngày càng hoàn thiện, hệ thống Nghị quyết hướng dẫn của HĐTP TANDTC và các hướng dẫn nghiệp vụ của VKSNDTC ngày càng chi tiết và cụ thể thì vẫn còn phát sinh một số vấn đề vướng mắc, khó khăn; mà chủ yếu là do về sự khác biệt trong quan điểm, diễn giải, các hiểu các quy định của các VBQPPL (cả về pháp luật nội dung và pháp luật hình thức), khác biệt về nhận thức và áp dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, giữa các cơ quan tiến hành tố tụng với nhau (giữa Tòa và Viện, Thẩm phán và Kiểm sát viên) và giữa cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng với những người trực tiếp quản lý, hướng dẫn thực thi pháp luật hàng ngày tại các TCTD (mà đại diện các luật sư nội bộ, cán bộ pháp chế ngân hàng và các Luật sư). Hoạt động TDTC phát sinh ngày càng nhiều, ngày càng phức tạp, giá trị tranh chấp ngày càng lớn, với mục tiêu bảo đảm pháp chế, sự thực thi nghiêm túc pháp luật, bảo đảm lẽ công bằng, nguyên tắc bình đẳng, thiện chí và trung thực trong xác lập và thực hiện các giao dịch dân sự và trong giải quyết tranh chấp dân sự phản ánh đúng bản chất của các quan hệ dân sự-kinh doanh-thương mại để xây dựng môi trường kinh doanh an toàn, ổn định, hệ thống các TCTD rất mong có được sự chia sẻ, thiện ý từ ngành kiểm sát bao gồm cả các Vụ, Cục chuyên môn từ VKSNDTC và hệ thống VKSND cấp huyện, cấp tỉnh và 3 Viện cấp cao.

Trong bối cảnh các vụ án tranh chấp dân sự, KD-TM nói chung và tranh chấp Hợp đồng tín dụng nói riêng diễn ra ngày càng phức tạp, thời gian qua các TCTD nói chung ghi nhận và đánh giá rất cao những chia sẻ, sự quan tâm hỗ trợ tích cực của hệ thống Viện kiểm sát trong hoạt động của các TCTD nói chung và trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng nói riêng, cụ thể:

Thứ nhất, sự tham gia hiệu quả của Viện kiểm sát trong kiểm sát hoạt động tư pháp đối với các vụ án dân sự nói chung và giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng nói riêng.

Nhiều vụ án, đại diện Viện kiểm sát có ý kiến nhận định độc lập với Tòa án, phù hợp với tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án để đảm bảo tính khách quan và quyền lợi chính đáng của của TCTD. Sự độc lập, khách quan này là cơ sở quan trọng để TCTD kháng cáo, có cơ sở đề nghị cấp có thẩm quyền kháng nghị đối với nội dung quyết định chưa phù hợp pháp luật trong bản án và được Tòa án có thẩm quyền chấp nhận.

Trong công tác kiểm sát hoạt động xét xử đối với các vụ án phức tạp tại Tòa án, Viện kiểm sát nhân dân đã có nhiều văn bản kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm/giám đốc thâm hủy hoặc sửa bản án sơ thẩm/phúc thẩm giải quyết chưa phù hợp với tình tiết khách quan của vụ án, tài liệu chứng cứ trong vụ án và quan điểm về áp dụng pháp luật trong bản án chưa phù hợp để bảo vệ quyền lợi của TCTD nhận thế chấp ngay tình. Với sự hỗ trợ này của Viện kiểm sát, đa số các kháng nghị phúc thẩm/giám đốc thẩm của Viện kiểm sát được Tòa án chấp nhận đem lại kết quả giải quyết đúng đắn, tích cực cho TCTD, làm tăng cường hiệu quả hoạt động của công tác kiểm sát nói riêng và công tác tiến hành tố tụng nói chung.

Đối với các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, trên cơ sở kiến nghị của TCTD, nhiều vụ án đã được Viện kiểm sát nhân dân cấp có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm để hủy bản án, quyết định có hiệu lực và được Hội đồng giám đốc thẩm chấp nhận kháng nghị, giao Tòa án cấp sơ thẩm hoặc phúc thẩm xét xử lại để đảm bảo quyền lợi chính đáng của TCTD.

Về cơ bản, các KSV được giao nhiệm vụ kiểm sát giải quyết tranh chấp đã thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ theo quy định của BLTTDS và Quy chế công tác kiểm sát trong quá trình kiểm sát các tranh chấp HĐTD. Đa số KSV được phân công đều có tinh thần trách nhiệm cao, có nhiều kinh nghiệm và trình độ chuyên môn nghiệp vụ kiểm sát đối với các tranh chấp HĐTD. Sự phối hợp tốt giữa VKSND và TAND cũng như giữa KSV và Thẩm phán đã góp phần hạn chế được nhiều sai sót trong quá trình giải quyết vụ án.

Thứ hai, công tác phổ biến, tập huấn nâng cao nghiệp vụ đã được Viện kiểm sát quan tâm tổ chức thường xuyên, đảm bảo sự thống nhất trong quan điểm áp dụng pháp luật, đặc biệt các vấn đề pháp luật phức tạp, nội dung quy định pháp luật thực định chưa rõ ràng, có nhiều cách hiểu khác nhau.

Văn bản Hướng dẫn công tác kiểm sát đối với giải quyết tranh chấp Hợp đồng tín dụng hiện nay gồm 02 Văn bản là Hướng dẫn số 29/HD-VKSTC ngày 25/9/2020 và Hướng dẫn số 25/HD-VKSTC ngày 18/4/2022 do Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành về việc kiểm sát việc giải quyết các vụ án kinh doanh thương mại. Trong Hướng dẫn số 29/HD-VKSTC ngày 25/9/2020, có nhiều nội dung, quy định có ý nghĩa tác động về mặt thực tiễn, hướng dẫn giải quyết một số vướng mắc trong kiểm sát xét xử vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng; Hướng dẫn số 25/HD-VKSTC ngày 18/4/2022 do Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành về một số nội dung liên quan đến hoạt động kiểm sát việc giải quyết vụ án kinh doanh thương mại về “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” đưa ra giải pháp tháo gỡ một số vướng mắc về áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng. Ngoài ra, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân cấp cao cũng kịp thời ban hành một số Thông báo rút kinh nghiệm về trong giải quyết tranh chấp Hợp đồng tín dụng gửi Viện kiểm sát nhân dân các cấp nghiên cứu tham khảo, rút kinh nghiệm nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng trong công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự.  

II. Những khó khăn và vướng mắc của tổ chức tín dụng trong quá trình giải quyết các tranh chấp về tín dụng liên quan đến Viện kiểm sát nhân dân

1. Về việc kiểm tra, giám sát thời hạn giải quyết vụ án, thi hành án

Hiện nay, các Tòa án thường chậm trễ về thời hạn giải quyết các vụ án. Các TCTD gửi đơn đến Viện kiểm sát (VKS) để kiến nghị, can thiệp, tuy nhiên, VKSND chỉ ra công văn chuyển yêu cầu khiếu nại của TCTD đến Chánh án Tòa án để giải quyết khiếu nại. Khi phiên tòa diễn ra, tại phần phát biểu ý kiến, đa số ý kiến của đại diện VKS phát biểu trước phiên tòa rằng: “thủ tục tố tụng chậm trễ, tuy nhiên vi phạm này không nghiêm trọng nên không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án.” Tuy nhiên, việc chậm trễ giải quyết vụ án tranh chấp gây ảnh hưởng rất nhiều đến quyền lợi hợp pháp của TCTD. Đặc biệt đối với những vụ việc tranh chấp về hợp đồng tín dụng, xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ, việc chậm trễ này dẫn đến giảm sút hiệu quả thu hồi nợ của TCTD, tài sản bảo đảm kém thanh khoản sẽ dẫn đến giá trị thu hồi khoản vay bị sụt giảm.

Bên cạnh đó, mặc dù VKSND yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự thực hiện kịp thời các trình tự, thủ tục thi hành án theo quy định của Luật Thi hành án dân sự nhưng chưa được cơ quan thi hành án dân sự thực hiện triệt để, nghiêm túc như: chậm xác minh, chậm kê biên tài sản thế chấp để thi hành án, chậm thẩm định giá, việc bán đấu giá kéo dài khi có thể thực hiện thủ tục rút gọn.

Ngoài ra, Khoản 2 Điều 44 Luật thi hành án dân sự 2008, sửa đổi bổ sung 2014 (sau đây gọi tắt là “Luật thi hành án dân sự”) quy định: “Trường hợp người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành án thì ít nhất 06 tháng một lần, Chấp hành viên phải xác minh điều kiện thi hành án; trường hợp người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành án là người đang chấp hành hình phạt tù mà thời gian chấp hành hình phạt tù còn lại từ 02 năm trở lên hoặc không xác định được địa chỉ, nơi cư trú mới của người phải thi hành án thì thời hạn xác minh ít nhất 01 năm một lần. Sau hai lần xác minh mà người phải thi hành án vẫn chưa có điều kiện thi hành án thì cơ quan thi hành án dân sự phải thông báo bằng văn bản cho người được thi hành án về kết quả xác minh. Việc xác minh lại được tiến hành khi có thông tin mới về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án.” Thực tế, nhiều trường hợp người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành án nhưng quá 06 tháng, thậm chí dài hơn mà Chấp hành viên vẫn chưa tiến hành xác minh. Sau hai lần xác minh mà người phải thi hành án vẫn chưa có điều kiện thi hành án thì cơ quan Thi hành án dân sự phải thông báo bằng văn bản cho người được thi hành án về kết quả xác minh. Nhiều trường hợp cơ quan thi hành án khi xác minh không có kết quả nhưng lại không thông báo cho TCTD.

Việc thi hành án dân sự bị chậm trễ do sự phối hợp của các cơ quan có thẩm quyền giải quyết vấn đề tài nguyên môi trường có liên quan chưa tuân thủ thời hạn theo Điều 44 Luật Thi hành án dân sự nhưng chưa được VKS nhân dân có ý kiến với các cơ quan này. Quá trình kiểm sát thực hiện thủ tục kê biên, bán đấu giá tài sản thi hành án là quyền sử dụng đất hết thời hạn sử dụng trong trường hợp người phải thi hành án không hợp tác được VKS nhân dân đồng ý, hoặc khi ngân hàng thỏa thuận được việc xử lý tài sản với bên thứ 3 để tất toán khoản nợ, giải chấp tài sản thế chấp nhưng có địa phương cơ quan có thẩm quyền giải quyết vấn đề tài nguyên môi trường không đồng ý cho người trúng đấu giá, bên thứ 3 thực hiện thủ tục gia hạn thời hạn sử dụng đất dẫn đến tài sản không chuyển nhượng được.

Các trường hợp vi phạm về trả lại đơn khởi kiện, về thụ lý vụ án, về thời hạn giải quyết các vụ án,.. chưa được phát hiện kịp thời và/hoặc xử lý triệt để thông qua chức năng kiểm sát thủ tục tố tụng nên khiến cho các vụ án về tín dụng ngân hàng bị kéo dài, tồn đọng nhiều năm, ảnh hưởng đến khả năng thu hồi nợ của TCTD. Trong quá trình giải quyết các tranh chấp tại Tòa án, do không tống đạt được các văn bản tố tụng hợp lệ cho bị đơn do bị đơn đã đi khỏi địa phương không rõ nơi cư trú nhưng Tòa án không áp dụng các phương thức tống đạt, các thủ tục tố tụng theo quy định tại Điều 173, 179 BLTTDS 2015 để giải quyết dứt điểm vụ án mà kéo dài thời gian giải quyết rất lâu. Tuy nhiên, VKSND cùng cấp kiểm sát thủ tục tố tụng tại Tòa án chưa có ý kiến kiến nghị đối với Tòa án trong vấn đề này.

* Đề xuất, kiến nghị:

- Đề nghị VKSNDTC có văn bản chỉ đạo VKSND các cấp tăng cường hơn nữa giám sát việc tuân thủ pháp luật của Tòa án. Theo đó, trường hợp Tòa án vi phạm quy định của pháp luật (trong đó có việc vi phạm về thời hạn tố tụng) thì VKSND cần có văn bản gửi Tòa án cùng cấp yêu cầu tuân thủ quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, trong phiên tòa, đề nghị KSV trình bày quan điểm về thủ tục tố tụng chậm trễ đúng bản chất vụ án, chỉ ra các vi phạm và xác định chính xác mức ảnh hưởng của việc chậm trễ này đến việc giải quyết vụ án.

- VKSND có giải pháp và có ý kiến với cơ quan thi hành án dân sự, cơ quan tài nguyên môi trường trong quá trình tổ chức thi hành án theo đúng thời hạn đã quy định trong Luật Thi hành án dân sự. Nâng cao vai trò kiểm sát việc thi hành án của VKSND các cấp, đặc biệt về cơ chế kiểm tra, giám sát của VKSND đối với các vụ việc thi hành án kéo dài nhiều năm (kiến nghị 03 năm trở lên) hoặc khi nhận được văn bản đề nghị của cá nhân, tổ chức về việc CQTHADS chậm trễ (khi có căn cứ về việc chậm trễ thi hành án từ 03 năm trở lên) khi thực hiện thi hành án.

- Đề nghị VKSND các cấp thực hiện quyền kiểm sát việc thi hành án các Bản án/Quyết định của Cơ quan thi hành án dân sự chặt chẽ hơn nữa, thực hiện đúng các thủ tục quy định tại Điều 10 Quy chế công tác kiểm sát thi hành án dân sự, thi hành án hành chính ban hành kèm theo Quyết định số 810/QĐ-VKSTC ngày 20/12/2016 của Viện trưởng VKSNDTC quy định về kiểm sát việc xác minh điều kiện thi hành án dân sự, thi hành án hành chính; tại các Điều 44, 44a, 45 Luật Thi hành án dân sự 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) quy định về xác minh điều kiện thi hành án; tại Điều 9 Nghị định số  62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi  tiết và thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự, quy định về xác minh điều kiện thi hành án; Điều 3 Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 01/8/2016 của liên ngành Bộ Tư pháp, TANDTC, VKSNDTC quy định một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự, quy định về xác minh điều kiện thi hành án, nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án.

- VKSND các cấp kiểm sát chặt chẽ hơn quá trình tố tụng tại Tòa án, thực hiện hiệu quả hơn nữa chức năng kiểm sát thủ tục tố tụng để kịp thời phát hiện và giải quyết triệt các trường hợp vi phạm về trả lại đơn khởi kiện, về thụ lý vụ án, về thời hạn giải quyết các vụ án … nhằm hỗ trợ TCTD xử lý thu hồi nhanh khoản nợ.

  1. Về việc thu thập tài liệu, chứng cứ, giám sát việc thực hiện công khai chứng cứ cho các đương sự

Theo quy định của BLTTDS năm 2015, VKSND có quyền thu thập tài liệu, chứng cứ để đảm bảo cho việc giải quyết vụ án và cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của VKSND/các cơ quan tiến hành tố tụng khác. Tuy nhiên, trên thực tế khi VKS gửi văn bản đề nghị các TCTD cung cấp tài liệu, chứng cứ đều chỉ ghi các thông tin rất chung chung và/hoặc chỉ ghi tên Khách hàng (không có thông tin về Chứng minh nhân dân hay Chi nhánh, Phòng giao dịch đang quản lý Khách hàng). Mặt khác, VKS cũng không để lại thông tin khi các TCTD cần liên hệ. Điều này dẫn đến việc các TCTD phải rất khó khăn để tìm được thông tin của Khách hàng và/hoặc không có đủ thông tin/cơ sở để thực hiện theo yêu cầu của VKSND.

Theo quy định tại khoản 5, Điều 96 BLTTDS thì khi giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án, đương sự phải sao gửi tài liệu, chứng cứ đó cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự khác. Điểm b, khoản 2, Điều 210 BLTTDS quy định tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, Thẩm phán phải hỏi đương sự về việc gửi chứng cứ cho đương sự khác. Đây là quy định có ý nghĩa góp phần bảo đảm thực hiện tốt nhất sự bình đẳng và quyền tranh tụng của đương sự trong tố tụng dân sự. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đương sự không thực hiện việc sao gửi tài liệu cho đương sự khác (do không biết hoặc cố tình không thực hiện), thẩm phán lại cho rằng Tòa án không có quyền buộc đương sự thực hiện nghĩa vụ này.

Như vậy, trường hợp đương sự không sao gửi tài liệu cho đương sự khác do không biết nhưng Thẩm phán không thông báo, giải thích khi đương sự đến giao nộp chứng cứ, nhưng kiểm sát viên cũng không có ý kiến - là kiểm sát viên chưa thực hiện đúng trách nhiệm quy định tại Khoản 2, Khoản 8 Điều 58 BLTTDS và chưa thực hiện quyền được hướng dẫn tại Khoản 2 Điều 20 Thông tư liên tịch số 02/2016/TTLT-VKSTC-TATC ngày 31/8/2016 của VKSNDTC và TANDTC quy định việc phối hợp giữa VKSND và TAND trong việc thi hành một số quy định của BLTTDS.

Theo quy định tại Điều 210 BLTTDS thì thẩm phán tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, sau đó mới tiến hành hòa giải. Tuy nhiên, thực tiễn có nhiều trường hợp sau khi thụ lý vụ án một thời gian ngắn, thẩm phán tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Sau đó, trong trường hợp hòa giải không thành, thẩm phán tiếp tục thu thập chứng cứ hoặc các đương sự tiếp tục giao nộp chứng cứ khác nhưng thẩm phán không mở phiên họp để tiếp cận công khai những chứng cứ mới này nên đương sự không được biết, nhưng kiểm sát viên không có biện pháp yêu cầu thẩm phán khắc phục vi phạm.

* Đề xuất, kiến nghị: Đề nghị VKSND khi gửi văn bản yêu cầu các TCTD cung cấp thông tin, tài liệu (VKSND để lại thông tin của KSV cần liên hệ) và trong các văn bản yêu cầu TCTD thực hiện, VKS cần nêu cụ thể các thông tin của khách hàng (chứng minh nhân dân, Chi nhánh quản lý, phát sinh vụ việc…) và căn cứ/cơ sở để TCTD thực hiện.

  1. Về việc cung cấp, tống đạt Văn bản tố tụng

Theo quy định tại Điều 170 và Điều 171 BLTTDS 2015 thì Tòa án, VKS, cơ quan thi hành án thực hiện việc cấp, tống đạt cho đương sự các văn bản tố tụng (Bản án, quyết định của Tòa án, Quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát…). Tuy nhiên, trên thực tế nhiều VKS đã không thực hiện nghĩa vụ gửi Quyết định kháng nghị cho TCTD, dẫn đến việc các TCTD gặp khó khăn trong quá trình thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.

* Đề xuất, kiến nghị: Đề nghị VKSND thực hiện việc cấp, tống đạt các văn bản tố tụng cho các đương sự theo đúng quy định của pháp luật.

  1. Về việc kiểm tra, giám sát quá trình thi hành án

 Trong các vụ việc liên quan đến đấu giá tài sản bảo đảm, khi người trúng đấu giá tài sản nộp hồ sơ đăng ký giải chấp, chuyển quyền sở hữu đối tài sản thì nhận được thông báo tài sản đang bị ngăn chặn chuyển nhượng với nhiều lý do không phù hợp khác nhau. TCTD gửi văn bản cho cơ quan thi hành án và đồng kính gửi VKSND để kiến nghị về vụ việc, nhưng cơ quan thi hành án vẫn giữ quan điểm và không đồng ý hủy bỏ việc ngăn chặn chuyển nhượng tài sản. Theo chức năng nhiệm vụ của VKSND và đặc biệt nhiệm vụ và quyền hạn được quy định tại Khoản 2 Điều 12 Luật Thi hành án dân sự 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì “VKS nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án, cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc thi hành án dân sự”. Tuy nhiên, VKSND cũng không có ý kiến phản hồi TCTD hoặc có kiến nghị/kháng nghị cần thiết theo đúng chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền gây ảnh hưởng tới quyền, lợi ích hợp pháp của TCTD.

Một vấn đề khác khi VKS yêu cầu tạm dừng việc giao tài sản trúng đấu giá trên cơ sở báo chí đưa thông tin có dấu hiệu vi phạm trong việc đấu giá tài sản trên. Cơ quan Thi hành án đã thực hiện bán đấu giá tài sản. Chủ thể trúng đấu giá đã nộp đủ tiền cho cơ quan thi hành án. Khi đó, VKS có Công văn tạm dừng việc giao tài sản trúng đấu giá trên cơ sở báo chí đưa thông tin có dấu hiệu vi phạm trong việc đấu giá tài sản trên. Căn cứ Nghị định 33/2020/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung Nghị định 62/2015/NĐ-CP hướng dẫn Luật Thi hành án dân sự), trong thời hạn không quá 30 ngày, trường hợp quá khó khăn, phức tạp thì không quá 60 ngày, kể từ ngày người mua được tài sản nộp đủ tiền, cơ quan thi hành án dân sự phải tổ chức việc giao tài sản cho người mua được tài sản, trừ trường hợp có sự kiện bất khả kháng. Trong khi đó, công văn của VKS chưa đủ căn cứ theo quy định pháp luật để tạm dừng việc thi hành án. Đồng thời cũng đã quá thời hạn phải bàn giao tài sản cho mua được tài sản theo đúng quy định pháp luật, gây khó khăn chậm trễ việc thu nợ, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của TCTD và của người trúng đấu giá. Việc đề nghị tạm dừng thi hành án của VKS là ảnh hưởng đến quyền lợi của người được thi hành án.

TCTD gặp vướng mắc về thủ tục và thời hạn thi hành án khi xử lý vụ việc giải quyết yêu cầu phá sản. Trường hợp TCTD nhận là bên nhận đảm bảo đối với tài sản đảm bảo là tài sản của doanh nghiệp bị Tòa án nhân dân có thẩm quyền ban hành quyết định mở thủ tục phá sản. Cụ thể, khi doanh nghiệp A yêu cầu Tòa án nhân dân có thẩm quyền mở thủ tục phá sản. Tòa án ra ban hành Quyết định mở thủ tục phá sản và Quyết định thành lập Tổ quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp yêu cầu mở thủ tục phá sản. Tổ quản lý, thanh lý tài sản đã yêu cầu TCTD bàn giao tài sản đảm bảo của doanh nghiệp cho Tổ quản lý, thanh tý tài sản theo quy định. Sau đó, Tòa án nhân dân có thẩm quyền ban hành Quyết định giải thể Tổ quản lý, thanh lý tài sản và giao tài sản của doanh nghiệp phá sản cho một doanh nghiệp khác có chức năng quản lý, thanh lý tài sản. Kể từ thời điểm có Quyết định giải thể Tổ quản lý, thanh lý tài sản và giao tài sản của doanh nghiệp cho một doanh nghiệp khác có chức năng quản lý, thanh lý tài sản thì TCTD không nhận được bất cứ thông báo nào về việc xử lý tài sản đảm bảo từ Tòa án và doanh nghiệp để thu hồi nợ, giảm thiểu thiệt hại cho TCTD. Mặc dù TCTD đã nhiều lần gửi công văn đến Cục thi hành án dân sự có thẩm quyền và VKSND có thẩm quyền nhưng không nhận được bất cứ phản hồi nào, việc này xâm phạm trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của TCTD và gây thiệt hại trong quá trình xử lý nợ xấu. Trường hợp này, VKSND có thẩm quyền đã không thưc hiện đúng chức năng, nhiệm vụ quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 28 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân. Đó là:

“2. Trực tiếp kiểm sát việc thi hành án của cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp và cấp dưới, Chấp hành viên, cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan

3. Kiểm sát hồ sơ về thi hành án.”

Ngoài ra, Quá trình kiểm sát tố tụng tại Tòa án khi có đương sự đang cư trú ở nước ngoài trước khi Tòa án ban hành bản án hoặc liên quan đến tài sản hộ gia đình thế chấp tại ngân hàng có nơi chưa chặt chẽ, chưa được xem xét đầy đủ khi xét xử, dẫn đến khi tổ chức thi hành án phát sinh thành viên hộ, dẫn đến tranh chấp (kể cả tranh chấp giả tạo), cơ quan thi hành án dân sự phải hoãn thi hành án theo Luật Thi hành án dân sự, kéo dài quá trình thu hồi nợ, ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của ngân hàng.

 Một số trường hợp sau khi cơ quan thi hành án dân sự bán đấu giá, tổ chức bàn giao tài sản của người phải thi hành án đã thế chấp ngân hàng là nhà ở cho người trúng đấu giá chưa được sự đồng thuận của Ban chỉ đạo thi hành án địa phương với lý do người phải thi hành án chỉ có 01 nhà ở duy nhất, ảnh hưởng đến an sinh xã hội địa phương, kéo dài quá trình thu hồi nợ, ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của ngân hàng là người được thi hành án đã được Tòa án xét xử.

* Đề xuất, kiến nghị:

- Kiến nghị VKSND các cấp thường xuyên kiểm tra và kiểm sát chặt chẽ hơn nữa đối với hoạt động thi hành án dân sự của cơ quan Thi hành án dân sự các cấp. Kịp thời có văn bản yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự tuân thủ quy định của pháp luật.

- Đề nghị VKSND tuân thủ triệt để quy định về việc đề nghị tạm dừng thi hành án. Đồng thời VKSND cần có quy định, hướng dẫn cụ thể về việc VKSND có quyền yêu cầu tạm dừng thi hành án khi có thông tin trên báo chí là có dấu hiệu vi phạm trong quá trình bán đấu giá tài sản thi hành án hay không và thời hạn yêu cầu tạm dừng.

- Trong quá trình thực hiện tố tụng và giải quyết các tranh chấp tín dụng, ở giai đoạn thi hành án dân sự cũng cần có sự quan tâm, kiểm sát, hướng dẫn từ VKS nhằm đảm bảo quyền lợi của TCTD. Khi cơ quan thi hành án dân sự có những quyết định hoãn thi hành án, thủ tục tổ chức bán đấu giá chưa phù hợp ảnh hưởng đến quyền lợi của TCTD nhưng chưa được sự kiểm sát kịp thời từ VKSND. Đề nghị khi TCTD có văn bản gửi VKSND để xin chỉ đạo thì VKSND cần có hướng dẫn cụ thể, kịp thời vấn đề.

  1. Về việc đại diện VKSND trình bày quan điểm tại phiên tòa

Thực tế trong quá trình tham gia tố tụng, căn cứ quan điểm phát biểu ý kiến của VKS tại phiên tòa mà không ít các vụ việc được làm rõ hướng giải quyết trái ngược với Tòa án, giúp vụ việc được sáng tỏ nhằm bảo đảm được quyền lợi của TCTD theo đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, tồn tại các trường hợp ý kiến của VKS chưa thể hiện được vai trò nói trên. Đặc biệt, đối với những vụ việc có nội dung phức tạp, tính chất nghiêm trọng, đề nghị đa dạng, nhiều yêu cầu, cần được KSV tham gia có ý kiến xác đáng để Hội đồng xét xử xem xét lại, nhìn nhận toàn diện hướng giải quyết thì Kiểm sát viên lại đưa ra ý kiến mang tính hình thức và chủ quan một cách chung chung như chấp thuận hoặc không chấp thuận toàn bộ/một phần yêu cầu của đương sự.

* Đề xuất, kiến nghị: Đề nghị VKSND khi tham gia tố tụng cần phát biểu ý kiến giải quyết vụ án một cách rõ ràng hơn nữa, có căn cứ pháp luật để nhận định được hướng giải quyết trong trường hợp hướng giải quyết vụ việc của Tòa án chưa thực sự thuyết phục, bảo vệ được quyền lợi chính đáng của TCTD.

  1. Về việc kiểm sát việc giải quyết khiếu nại của Tòa án

Ngày 23/11/2021, VKSNDTC đã ban hành Công văn số 4733/VKSTC-V12 về việc hướng dẫn công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng dân sự, tố tụng hành chính. Theo đó, để tăng cường công tác kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp, VKSNDTC hướng dẫn VKSND các cấp thực hiện công tác kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng dân sự, tố tụng hành chính của Tòa án, trong đó có nội dung:

Sau khi VKSND nhận được đơn khiếu nại, tố cáo về việc Tòa án, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo không ra văn bản giải quyết trong thời hạn quy định; hoặc VKSND có căn cứ xác định Tòa án, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo không ra văn bản giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thời hạn quy định thì VKSND căn cứ khoản 1 Điều 34 Thông tư liên tịch số 02/2016/TTLT-VKSTC-TATC ngày 31/8/2016 quy định việc phối hợp giữa VKSND và TAND trong việc thi hành một số quy định của BLTTDS, để áp dụng biện pháp kiểm sát: Yêu cầu Tòa án ra văn bản giải quyết khiếu nại, tố cáo. Tuy nhiên, TCTD đã gặp trường hợp không được Tòa án giải quyết khiếu nại, nhưng VKSND cùng cấp không thực hiện việc giám sát theo đúng luật định.

* Đề xuất, kiến nghị: Kiến nghị VKSNDTC chỉ đạo VKSND các cấp tăng cường giám sát công tác kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp, đảm bảo VKSND các cấp thực hiện đầy đủ, đúng các quy định được hướng dẫn tại Công văn số 4733/VKSTC-V12 về việc hướng dẫn công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng dân sự, tố tụng hành chính.

  1. Về việc áp dụng quy định pháp luật khi xác định mức phạt vi phạm trong hợp đồng tín dụng

Theo Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/1/2019 của HĐTP TANDTC đã cho phép tính lãi trên lãi chậm trả đối với các Hợp đồng tín dụng (“Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP”) ký kết sau ngày 01/01/2017. Cụ thể, tại khoản 1, khoản 2, Điều 7 quy định về Áp dụng pháp luật về lãi, lãi suất trong hợp đồng tín dụng (“HĐTD”), như sau:

 “1. Lãi, lãi suất trong hợp đồng tín dụng do các bên thỏa thuận nhưng phải phù hợp với quy định của Luật Các tổ chức tín dụng và văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết, hướng dẫn áp dụng Luật Các tổ chức tín dụng tại thời điểm xác lập hợp đồng, thời điểm tính lãi suất.

2. Khi giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng, Tòa án áp dụng quy định của Luật Các tổ chức tín dụng, văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết, hướng dẫn áp dụng Luật Các tổ chức tín dụng để giải quyết mà không áp dụng quy định về giới hạn lãi suất của Bộ luật Dân sự năm 2005, Bộ luật Dân sự năm 2015 để xác định lãi, lãi suất.”

 Đồng thời, theo khoản 2 Điều 8 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP quy định về xác định lãi, lãi suất trong hợp đồng tín dụng tại thời điểm xét xử sơ thẩm thì lãi, lãi suất trong hợp đồng tín dụng xác lập kể từ ngày 01-01-2017 được xác định như sau:

a) Lãi trên nợ gốc, lãi trên nợ gốc quá hạn được xác định theo quy định tại khoản 1 Điều này.

b) Trường hợp khách hàng không trả đúng hạn tiền lãi trên nợ gốc theo thỏa thuận tại hợp đồng tín dụng, thì phải trả lãi chậm trả theo mức lãi suất do tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận nhưng không vượt quá mức lãi suất giới hạn mà pháp luật quy định tương ứng với thời gian chậm trả lãi trên nợ gốc trong hạn.

 Tuy nhiên, VKSNDTC do nhận định rằng tại khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 quy định “Hợp đồng vay tài sản có thỏa thuận xử lý đối với hành vi không trả nợ đúng hạn của bên vay thì Tòa án xem xét, quyết định theo nguyên tắc chỉ xử lý một lần đối với mỗi hành vi không trả nợ đúng hạn”, nên VKSNDTC đã có nội dung hướng dẫn tại các văn bản theo hướng không chấp nhận mức lãi trên lãi chậm trả như sau:

Theo hướng dẫn số 25/HD-VKSTC ngày 18/4/2022 của VKSNDTC, tại mục số 7.1 có nội dung:

“7.1. Xác định việc phạt vi phạm không đúng

Thực tế, trong nhiều HĐTD có quy định thêm điều khoản về phạt vi phạm đối với việc quá hạn của hợp đồng ngoài việc chuyển sang nợ quá hạn. Về bản chất, đây là khoản phạt quá hạn (thường bằng 150% lãi suất trong hạn); khi phát sinh tranh chấp, nhiều Tòa án căn cứ thỏa thuận tại HĐTD đã công nhận điều khoản này là không đúng.

……

Quá trình kiểm sát, KSV cần lưu ý: Hiện nay, chưa có quy định nào cho phép phạt nhiều lần về cùng vi phạm trong HĐTD. Điều 12 Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm quy định nguyên tắc “chỉ xử lý một lần đối mỗi hành vi không trả nợ đúng hạn”. Do vậy, nếu các bên đã thỏa thuận về lãi suất quá hạn (thường bằng 150% lãi suất vay trong hạn), lại còn quy định thêm khoản phạt chậm trả hoặc lãi đối với lãi chậm trả là không đúng.

 (Quyết định giám đốc thẩm số 01/2017/KDTM-GĐT ngày 01//-2017 của TAND tối cao (được phát triển thành Án lệ 11/2017/AL)).”

Điểm 1.2 mục II Hướng dẫn số 29/HD-VKSTC ngày 25/9/2020: “trong các hợp đồng tín dụng các bên đã thỏa thuận về lãi suất quá hạn (=150% lãi suất vay trong hạn) nhưng lại còn thỏa thuận về lãi phạt chậm trả đối với số tiền lãi quá hạn chưa thanh toán là lãi chồng lãi, phạt chồng phạt. Đối với yêu cầu này của đương sự, trong quá trình kiểm sát, Kiểm sát viên đề nghị không chấp nhận khoản tiền này.

  Điểm 6 mục III Hướng dẫn số 20/HD-VKSTC ngày 23/02/2021: trong các hợp đồng tín dụng các bên đã thỏa thuận về lãi suất quá hạn (=150% lãi suất vay trong hạn) nhưng lại còn thỏa thuận về lãi phạt chậm trả đối với số tiền lãi trên nợ gốc quá hạn chưa thanh toán là lãi chồng lãi, phạt chồng phạt. Đối với yêu cầu này của đương sự, khi phát biểu, Kiểm sát viên đề nghị không chấp nhận khoản tiền này.

 Ngoài ra, có một số Tòa án khi xét xử đã viện dẫn Án lệ số 08/2016/AL ngày 17/10/2016 không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng về “lãi chậm trả tiền lãi”. Trong khi đó, các Ngân hàng đang tính lãi trên nợ gốc chậm trả và lãi (phạt) chậm trả trên số dư lãi chậm trả theo quy đúng quy định của Thông tư 39/2016/NHNN (như nêu trên) và vẫn đảm bảo nguyên tắc “chỉ xử lý một lần đối với mỗi hành vi không trả nợ đúng hạn” – bao gồm hành vi không trả gốc đúng hạn và hành vi không trả lãi đúng hạn.

Theo các TCTD, nội dung hướng dẫn trên là không phù hợp với quy định tại Điều 466 BLDS 2015 và Thông tư 39/2016/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng.

 Điều 466 BLDS 2015 quy định:

“Điều 466. Nghĩa vụ trả nợ của bên vay

 5. Trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi như sau:

 a) Lãi trên nợ gốc theo lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tương ứng với thời hạn vay mà đến hạn chưa trả; trường hợp chậm trả thì còn phải trả lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này;

 b) Lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác.

 Điều 468. Lãi suất

 2. Trường hợp các bên có thoả thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ.”

 Khoản 4 Điều 13 Thông tư 39/2016/TT-NHNN quy định:

 “Điều 13. Lãi suất cho vay

 4. Khi đến hạn thanh toán mà khách hàng không trả hoặc trả không đầy đủ nợ gốc và/hoặc lãi tiền vay theo thỏa thuận, thì khách hàng phải trả lãi tiền vay như sau:

 a) Lãi trên nợ gốc theo lãi suất cho vay đã thỏa thuận tương ứng với thời hạn vay mà đến hạn chưa trả;

b) Trường hợp khách hàng không trả đúng hạn tiền lãi theo quy định tại điểm a khoản này, thì phải trả lãi chậm trả theo mức lãi suất do tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận nhưng không vượt quá 10%/năm tính trên số dư lãi chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả;

c) Trường hợp khoản nợ vay bị chuyển nợ quá hạn, thì khách hàng phải trả lãi trên dư nợ gốc bị quá hạn tương ứng với thời gian chậm trả, lãi suất áp dụng không vượt quá 150% lãi suất cho vay trong hạn tại thời điểm chuyển nợ quá hạn.”

Như vậy nội dung về áp dụng mức phạt vi phạm trong các hợp đồng tín dụng là phù hợp với quy định của BLDS 2015, Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP và Thông tư 39/2016/TT-NHNN về lãi suất, việc VKSNDTC hướng dẫn như trên sẽ gây bất lợi, ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của các TCTD. Ngoài ra Án lệ 11/2017/AL không hướng dẫn việc áp dụng quy định pháp luật về lãi suất, do vậy vận dụng án lệ 11/2017/AL trong trường hợp này không phù hợp.

* Đề xuất, kiến nghị: Để tránh nhầm lẫn trong quá trình kiểm sát quan điểm xét xử của Tòa án, VKSNDTC có văn bản hướng dẫn nghiệp vụ và tổ chức truyền thông, đào tạo tới đầy đủ đội ngũ Kiểm sát viên để việc áp dụng pháp luật về tín dụng ngân hàng và giải quyết tranh chấp liên quan đến tín dụng ngân hàng được thống nhất và phù hợp với pháp luật hiện hành.

  1. Về việc xem xét, thẩm định tại chỗ tài sản thế chấp

Theo quy định tại khoản 1 Điều 101 BLTTDS 2015 thì việc xem xét thẩm định tại chỗ tài sản thế chấp sẽ được thực hiện “theo yêu cầu của đương sự hoặc khi Thẩm phán xét thấy cần thiết”. Tuy nhiên, một số văn bản hướng dẫn của VKSNDTC đang quy định như sau:

- Tại điểm 1.1.3 Mục II Hướng dẫn số 29/HD-VKSTC của VKSNDTC quy định “Quá trình kiểm sát việc giải quyết, phải kiểm sát chặt chẽ việc Tòa án xem xét, thẩm định tại chỗ tài sản thế chấp theo Điều 108 BLTTDS năm 2015 hay chưa, nếu chưa thì phải yêu cầu Tòa án thực hiện việc này

- Tại điểm 6 mục III Hướng dẫn số 20/HD-VKSTC quy định “Phát biểu của Kiểm sát viên phải chú ý đến việc Tòa án xem xét, thẩm định tại chỗ tài sản thế chấp theo Điều 101 BLTTDS năm 2015. Cụ thể là, việc xem xét, thẩm định tại chỗ của Tòa án có mô tả đúng, đầy đủ hiện trạng tài sản thế chấp không? có đo vẽ, xác định chính xác cụ thể vị trí tài sản (trường hợp cần thiết phải chụp ảnh để quan sát tài sản trên thực tế); đồng thời xác định người có quyền đối với tài sản thế chấp, hoặc ai đang quản lý, sử dụng tài sản thế chấp và tài sản thế chấp trên thực tế có khác gì so với tài sản thể hiện trên giấy tờ hay không để giải quyết vụ án một cách toàn diện, triệt để”.

- Tại điểm 8 mục II Hướng dẫn số 25/HD-VKSTC quy định:

Không ít trường hợp, Tòa án không xem xét thẩm định tại chỗ, vì cho rằng không có ai yêu cầu, hoặc trường hợp vụ án bị hủy để xét xử lại thì Tòa án cho rằng giai đoạn xét xử trước đây đã xem xét thẩm định tại chỗ. Vi phạm này, dẫn đến bản án, quyết định bị hủy ở cấp giám đốc thẩm.

Khi kiểm sát việc xem xét, thẩm định tại chỗ tài sản bảo đảm, KSV cần kiểm sát chặt chẽ việc Tòa án xem xét, thẩm định tại chỗ TSTC theo Điều 101 BLTTDS năm 2015. Cụ thể là, việc xem xét, thẩm định tại chỗ của Tòa án có mô tả đúng, đầy đủ hiện trạng TSTC không? có đo vẽ, xác định chính xác cụ thể vị trí tài sản (trường hợp cần thiết phải có bản ảnh để quan sát tài sản trên thực tế); đồng thời xác định người có quyền đối với TSTC, hoặc ai đang quản lý, sử dụng TSTC và TSTC trên thực tế có khác gì so với tài sản thể hiện trên giấy tờ hay không để giải quyết vụ án một cách toàn diện, triệt để.

Quá trình kiểm sát, KSV cần lưu ý: Trường hợp Tòa án không tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ vì cho rằng không có ai yêu cầu, hoặc trường hợp khi vụ án bị hủy để xét xử lại Tòa án cho rằng giai đoạn xét xử trước đây đã xem xét thẩm định tại chỗ, thì KSV cần yêu cầu Tòa án xem xét, thẩm định lại tài sản, vì qua thời gian, tài sản có thể có những biến động, như có sự thay đổi về tài sản trên đất, người quản lý tài sản ...

Các quy định trên cho rằng Tòa án phải thực hiện việc xem xét thẩm định tại chỗ để tránh trường hợp xác định thiếu “người tham gia tố tụng”. Việc này sẽ phát sinh các vướng mắc sau:

  • Tòa án đã ra quyết định xem xét thẩm định tại chỗ nhưng không thể thực hiện thẩm định tại chỗ được thì liệu có cơ sở để tiếp tục giải quyết vụ án không; hoặc
  • Nếu Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án thì có bị xem là vi phạm thủ tục tố tụng không;
  • Nếu Tòa án xét thấy không cần thiết hoặc đương sự không có yêu cầu nên không thực hiện thủ tục xem xét, thẩm định tại chỗ thì có bị xem là vi phạm thủ tục tố tụng không?

* Đề xuất, kiến nghị: VKS và Tòa án thống nhất quan điểm giải quyết vụ án và có hướng dẫn cụ thể đối với các nội dung như nêu trên.

  1. Vướng mắc khi xác định trách nhiệm dân sự của TCTD trong vụ án hình sự

9.1 TCTD phải hoàn trả tài sản cho người bị hại khi TCTD được xác định là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự

Khi doanh nghiệp mở tài khoản ngân hàng ở TCTD, doanh nghiệp trở thành khách hàng của TCTD. Doanh nghiệp cũng ký kết các Hợp đồng tín dụng với TCTD để vay tài sản phục vụ hoạt động kinh doanh. Trong quá trình hoạt động kinh doanh, Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp bị truy tố trong một vụ án hình sự với tội danh “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, nhưng Tòa án lại yêu cầu TCTD phải hoàn trả tài sản cho người bị hại trong vụ án hình sự mà không yêu cầu trách nhiệm của doanh nghiệp phải hoàn trả tài sản. Cụ thể, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, yêu cầu người bị hại chuyển tiền vào tài khoản của doanh nghiệp trên danh nghĩa doanh nghiệp vay tài sản của người bị hại, hợp thức hóa tài sản do người đại diện pháp luật phạm tội mà có trở thành tài sản thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp và được doanh nghiệp gửi vào TCTD. Doanh nghiệp vừa là khách hàng gửi tiền tại TCTD, vừa là bên vay tài sản của TCTD theo các Hợp đồng tín dụng và thỏa thuận giữa hai bên. Căn cứ theo thỏa thuận giữa TCTD và doanh nghiệp, trường hợp doanh nghiệp phát sinh tài sản được gửi tại TCTD mà vi phạm nghĩa vụ trong Hợp đồng tín dụng thì TCTD có quyền cấn trừ trên tài sản phát sinh.

TCTD đã thực hiện theo đúng quyền và nghĩa vụ trong các thỏa thuận với doanh nghiệp, cấn trừ tài sản phát sinh của doanh nghiệp gửi tại TCTD để thanh toán các khoản nợ đến thời hạn thanh toán của doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong quá trình tố tụng, Tòa án nhân dân có thẩm quyền đã thực hiện và áp dụng không đúng các quy định của pháp luật, cụ thể như sau:

  • Trong quá trình tố tụng, Tòa án không đưa doanh nghiệp tham gia quá trình tố tụng với tư cách là “Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan” mặc dù doanh nghiệp có đủ quyền, nghĩa vụ liên quan theo quy định tại Điều 65 Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015.
  • Khi áp dụng pháp luật để tiến hành xét xử, Tòa án áp dụng chưa đúng quy định tại Điều 47 Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015 về tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm: “Đối với vật, tiền bị người phạm tội chiếm đoạt hoặc sử dụng trái phép, thì không tịch thu mà trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp”. Tài sản mà TCTD được doanh nghiệp dùng để trả nợ không phải là tiền bị người phạm tội chiếm đoạt hoặc sử dụng trái phép có mối liên quan trực tiếp đến tội phạm, bởi lẽ người bị hại chuyển tiền cho doanh nghiệp và doanh nghiệp là bên sở hữu số tiền đó, thì trong trường hợp tài sản bị xác định là tài sản do phạm tội mà có, bên có nghĩa vụ hoàn trả tiền cho người bị hại là doanh nghiệp. TCTD cấn trừ tiền trong tài khoản của doanh nghiệp hoàn toàn là từ các giao dịch dân sự phù hợp với quy định của pháp luật được hình thành từ trước khi hành vi phạm tội diễn ra.

Tòa án khi tuyên án lại yêu cầu TCTD có nghĩa vụ trả tài sản mà TCTD đã cấn trừ từ tài khoản của doanh nghiệp cho người bị hại mà hoàn toàn bỏ qua trách nhiệm của doanh nghiệp mặc dù người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là người phạm tội và doanh nghiệp là chủ thể phát sinh quyền sở hữu đối với tài sản do phạm tội mà có.

Đối với nội dung phán quyết của Tòa án có thẩm quyền về việc TCTD là bên có trách nhiệm phải hoàn trả người bị hại tài sản do phạm tội mà có, mặc dù nội dung này áp dụng chưa đúng và đầy đủ quy định của pháp luật, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân không yêu cầu bổ sung doanh nghiệp trở thành người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia quá trình tố tụng để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của tất cả các bên. Đồng thời, chưa có ý kiến đầy đủ về việc áp dụng pháp luật không đúng quy định của pháp luật của Tòa án khi Tòa án yêu cầu TCTD hoàn trả tài sản cho người bị hại mặc dù TCTD là bên thứ ba ngay tình.

9.2 Xác định trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự

Trong vụ án các cán bộ ngân hàng và người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp bị VKSND có thẩm quyền truy tố về hành vi “Vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng”. Cáo trạng của VKSND có thẩm quyền có nội dung quy định về trách nhiệm dân sự như sau: “Áp dụng điều 48 Bộ Luật Hình sự năm 2015 buộc các bị can phải bồi thường cho Ngân hàng theo quy định của pháp luật”.

 Nội dung về trách nhiệm dân sự VKSND có thẩm quyền quyết định áp dụng Điều 48 Bộ Luật hình sự năm 2015 nhằm đảm bảo quyền lợi cho TCTD nhưng lại yêu cầu các bị can là chủ thể phải bồi thường cho TCTD là chưa hợp lý.

Khi ký kết Hợp đồng tín dụng và Hợp đồng thế chấp, TCTD và doanh nghiệp là hai bên tham gia xác lập quan hệ bên vay và bên cho vay, bên thế chấp và bên nhận thế chấp. Doanh nghiệp cũng là bên trực tiếp nhận tài sản vay từ ngân hàng để thực hiện sử dụng tài sản vay vào mục đích hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Trường hợp doanh nghiệp không thực hiện thanh toán tiền vay trong Hợp đồng tín dụng, TCTD có quyền xử lý tài sản đảm bảo mà doanh nghiệp đã thế chấp trong Hợp đồng thế chấp. VKSND có thẩm quyền yêu cầu các bị can có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho TCTD mà bỏ qua trách nhiệm của doanh nghiệp sẽ gây thiệt hại về tài sản cho TCTD. Bởi các bị can trong vụ án là những cá nhân, tài sản thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp của các cá nhân này khó đảm bảo thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho TCTD, việc các cá nhân thực hiện các biện pháp tẩu tán tài sản nhằm trốn tránh nghĩa vụ thực hiện bồi thường thiệt hại cho TCTD là dễ dàng hơn so với doanh nghiệp. Trong vụ án này, chủ thể có trách nhiệm đối với việc thực hiện nghĩa vụ phát sinh trong các giao dịch dân sự với TCTD phải là doanh nghiệp.

Nếu áp dụng pháp luật theo Cáo trạng của Viện Kiểm sát thì sẽ tạo điều kiện để doanh nghiệp hưởng lợi toàn bộ số tiền đã vay của TCTD. Các giao dịch giữa TCTD và doanh nghiệp đang là hình thức vay có tài sản đảm bảo sẽ trở thành hình thức vay không có tài sản đảm bảo, tạo tiền lệ xấu, ảnh hưởng tới hoạt động xử lý nợ xấu của toàn bộ hệ thống các TCTD.

9.3. Về căn cứ pháp lý xác định hiệu lực của Hợp đồng thế chấp và xác định TCTD là bên thứ ba ngay tình trong giao dịch thế chấp tài sản và trong các vụ án hình sự có liên quan đến các TCTD.

Hiện nay hệ thống pháp luật đã ban hành đầy đủ quy định pháp luật để xác định hiệu lực của Hợp đồng thế chấp và xác định TCTD là bên nhận bảo đảm ngay tình.

Thứ nhất, TCTD đã nhận thế chấp tài sản bảo đảm trên cơ sở Giấy chứng nhận cấp cho chủ sở hữu (Bên thế chấp).

Khoản 20 Điều 4 Luật Đất đai 2003 và Khoản 16 Điều 3 Luật Đất đai 2013 quy định:

“Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là giấy chứng nhận do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp cho người sử dụng đất để bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất”

“Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất”

Từ các quy định trên có thể thấy, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (gọi chung là “GCNQSDĐ”) là chứng từ pháp lý cao nhất của Nhà nước ghi nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu công trình của người sử dụng/chủ sở hữu. Hay nói cách khác, người đứng tên trên Giấy chứng nhận là chủ thể duy nhất có quyền sử dụng, sở hữu bất động sản hợp pháp dưới sự công nhận của Nhà nước. Trước khi thế chấp cho TCTD, Bên thế chấp đã được cơ quan có thẩm quyền cấp GCNQSDĐ và là chủ thể duy nhất được quyền xác lập giao dịch thế chấp với TCTD. TCTD chỉ căn cứ vào GCNQSDĐ được cấp hợp pháp khi xác định chủ sở hữu.

Thứ hai, TCTD đã tiến hành đầy đủ các thủ tục công chứng hợp đồng thế chấp, đăng ký giao dịch bảo đảm đầy đủ theo quy định của pháp luật theo từng thời kỳ, quá trình giao dịch thế chấp tài sản đã được thực hiện thông qua cơ quan công chứng, cơ quan đăng ký đất đai mà không phát sinh bất kỳ thông tin ngăn chặn giao dịch, khiếu nại hoặc tranh chấp liên quan đến tài sản. TCTD không thể biết và không có trách nhiệm phải biết về mối quan hệ, giao dịch trước đó giữa các bên liên quan đến tài sản. Như vậy, tại thời điểm TCTD nhận thế chấp tài sản, các bên trong giao dịch là chủ thể có đầy đủ thẩm quyền xác lập, giao dịch thế chấp tài sản đã đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định (công chứng, đăng ký thế chấp). Do đó, Hợp đồng thế chấp và biện pháp thế chấp đều đã phát sinh hiệu lực, có hiệu lực đối kháng với bên thứ ba nên phải được pháp luật công nhận và bảo vệ; việc thế chấp tài sản chỉ chấm dứt theo quy định tại Điều 327 Bộ luật dân sự 2015.

Thứ ba, TCTD là bên nhận bảo đảm ngay tình căn cứ theo:

Khoản 2 Điều 133 của BLDS 2015 quy định: “Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác cho người thứ ba ngay tình và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu…”.

Theo nội dung quy định nêu trên, thì quyền lợi của người thứ ba sẽ được bảo đảm (giao dịch không bị vô hiệu) khi đáp ứng 02 điều kiện sau:

- Điều kiện 1: Người thứ ba căn cứ vào việc đăng ký tài sản tại cơ quan nhà nước để thực hiện giao dịch. Trong các vụ án này, TCTD nhận thế chấp trên cơ sở GCNQSDĐ được Nhà nước cấp cho bên thế chấp, việc thế chấp đáp ứng các điều kiện theo quy định pháp luật, Hợp đồng thế chấp được công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm theo đúng quy định pháp luật, do đó cả Hợp đồng và biện pháp thế chấp đều đã phát sinh hiệu lực

- Điều kiện 2: Người thứ ba ngay tình khi xác lập, thực hiện giao dịch.

Mục 1 Phần II của Công văn số 64/TANDTC-PC quy định nội dung: “Trường hợp giao dịch chuyển nhượng nhà đất bị vô hiệu nhưng bên nhận chuyển nhượng đã được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất và đã thế chấp nhà, quyền sử dụng đất đó cho Ngân hàng theo đúng quy định của pháp luật thì giao dịch thế chấp đó không vô hiệu”. Có thể thấy, TANDTC đã hướng dẫn rất rõ rằng: “trong trường hợp đã nhận thế chấp đúng quy định pháp luật thì giao dịch thế chấp không vô hiệu”.

Từ những căn cứ pháp lý nêu trên, TCTD hoàn toàn được xem là bên ngay tình trong việc nhận thế chấp tài sản. Áp dụng các quy định pháp luật hiện hành và Công văn số 64/TANDTC-PC ngày 03/4/2019 của Tòa án nhân dân tối cao về việc thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc về hình sự, dân sự và tố tụng hành chính thì “Trường hợp giao dịch chuyển nhượng nhà đất bị vô hiệu nhưng bên nhận chuyển nhượng đã được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất và đã thế chấp nhà, quyền sử dụng đất đó cho Ngân hàng theo đúng quy định của pháp luật thì giao dịch thế chấp đó không vô hiệu”. Khi đó “chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản từ người thứ ba ngay tình, nếu giao dịch dân sự với người này không bị vô hiệu theo quy định tại khoản 2 Điều này nhưng có quyền khởi kiện, yêu cầu chủ thể có lỗi dẫn đến việc giao dịch được xác lập với người thứ ba phải hoàn trả những chi phí hợp lý và bồi thường thiệt hại” (khoản 3 Điều 133 Bộ luật dân sự 2015).

Thực tế hiện nay, trong quá trình giải quyết các vụ án tranh chấp HĐTD và HĐTC (tranh chấp dân sự/KDTM) và trong các vụ án hình sự có liên quan đến hoạt động ngân hàng (cụ thể là tài sản thế chấp tại Ngân hàng có liên quan trong các vụ án hình sự) thì quan điểm của các cơ quan tiến hành tố tụng (CQĐT, VKS, Tòa án) đều không xác định/công nhận các TCTD là bên nhận thế chấp ngay tình, dẫn đến việc HĐTC bị tuyên vô hiệu (trong các vụ án tranh chấp liên quan đến TSTC) hoặc tài sản thế chấp bị tuyên xử lý để thực hiện trách nhiệm bồi thường của bị cáo trong vụ án, TCTD không được xử lý tài sản thế chấp để thu nợ, ảnh hưởng rất lớn đến quyền lợi của TCTD.

Từ những cơ sở pháp lý và thực tế khách quan trong quá trình giải quyết các vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng và các vụ án hình sự có liên quan đến hoạt động ngân hàng (cho vay, nhận thế chấp tài sản), các TCTD kiến nghị Viện kiểm sát nhân dân các cấp đánh giá một cách toàn diện, xem xét ban hành kiến nghị, trình bày quan điểm với các vấn đề trên trong quá trình tham gia kiểm sát các vụ án tranh chấp kinh doanh thương mại hoặc các vụ án hình sự có liên quan đến hoạt động ngân hàng (VKS là đơn vị ban hành Cáo trạng truy tố), để các bản án áp dụng đúng quy định pháp luật về nội dung và đảm bảo về mặt tố tụng. Đặc biệt, cần có hướng dẫn về việc kiểm sát việc áp dụng pháp luật của Tòa án trong việc căn cứ xác định TCTD là bên nhận thế chấp ngay tình, Hợp đồng thế chấp giữa TCTD với các bên thế chấp khi thực hiện đầy đủ quy định pháp luật có giá trị pháp lý, tài sản thế chấp tiếp tục được bảo đảm cho khoản vay của Bên được cấp tín dụng tại TCTD. TCTD có quyền được yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý các tài sản thế chấp để thu hồi nợ để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các TCTD.  

Hiệp hội Ngân hàng hy vọng một số đóng góp nhỏ trên đây sẽ góp phần cải thiện hiệu quả của công tác kiểm soát trong hoạt động tố tụng liên quan đến tranh chấp hợp đồng tín dụng và tác động tích cực đến hiệu quả của hoạt động ngân hàng.

Xin trân trọng cảm ơn.

VNBA News

Tính lãi tiền gửi
VNĐ
%/year
month
Tính lãi tiền gửi

Tính toán khoản vay
VNĐ
%/year
month
Tính toán khoản vay