Ngân hàng Thế giới (WB) tại báo cáo Triển vọng kinh tế toàn cầu (GEP) tháng 6/2021 dự báo tăng trưởng khu vực Đông Á và Thái Bình Dương (EAP) sẽ phục hồi nhanh chóng, đạt 7,7% năm 2021, và 5,3% trong năm 2022. Việt Nam được đánh giá sẽ có tốc độ tăng trưởng cao nhất khu vực Đông Nam Á với GDP năm 2021 có thể đạt 6,6% và duy trì ở mức trung bình 6,5% cho 2022 và 2023.
Các diễn biến gần đây
Theo GEP, sau khi mức độ tăng trưởng giảm mạnh xuống 1,2% năm 2020, kinh tế khu vực EAP đã phục hồi trở lại, nhưng tốc độ phục hồi khác nhau đáng kể giữa các các quốc gia và còn rất lâu mới có thể đạt được mức tăng trưởng như trước khi đại dịch xảy ra.
Tại Trung Quốc, các ca nhiễm COVID-19 tiếp tục được kiềm chế ở mức thấp và sự phục hồi đã mở rộng từ đầu tư công cho đến tiêu dùng. Xuất khẩu hàng hóa tăng trưởng mạnh mẽ trong khi nhập khẩu cũng đã tăng nhanh, được hỗ trợ bởi sự phục hồi của cầu trong nước. Các cơ quan chức năng gần đây đã bắt đầu chuyển các nỗ lực chính sách từ hỗ trợ các hoạt động kinh tế sang theo hướng giải quyết các rủi ro ổn định tài chính với việc giảm cung cấp thanh khoản ròng.
Nền kinh tế Indonesia ban đầu bị giảm ít hơn so với các nền kinh tế thị trường mới nổi và đang phát triển (EMDEs), nhưng sự phục hồi sau đó lại chậm hơn. Khả năng chống chịu ban đầu của Indonesia phần nào phản ánh việc được bảo vệ tốt hơn khỏi sự sụp đổ của du lịch và thương mại toàn cầu, cùng với với các biện pháp phong tỏa dần dần và phân tán trước các đợt bùng phát dai dẳng của COVID-19. Ngược lại, Thái Lan vốn phụ thuộc nhiều vào thương mại và du lịch nên mặc dù có tỷ lệ lây nhiễm thấp nhưng sự sụt giảm ban đầu lại nghiêm trọng hơn khi nhu cầu bên ngoài giảm mạnh cùng với sự không chắc chắn về chính sách trong nước.
Việt Nam là quốc gia duy nhất trong số các nước ASEAN, đạt được tăng trưởng cao hơn mức trước đại dịch. Thành công trong việc kiềm chế COVID-19 cùng với các biện pháp tài khóa hỗ trợ đầu tư công và dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tăng mạnh mẽ đã phát huy hiệu quả tích cực cho tăng trưởng của Việt Nam. Ngược lại, tăng trưởng của Philippines vẫn thấp hơn khoảng 8% so với mức trước đại dịch do du lịch giảm sút nặng nề, cùng với việc thực hiện phong tỏa kéo dài và nghiêm ngặt để đối phó với đợt bùng phát COVID-19 nghiêm trọng; đồng thời phải hứng chịu một loạt các thảm họa thiên nhiên như siêu bão Goni và núi lửa phun trào. Nền kinh tế của các đảo quốc nhỏ (như Fiji, Samoa, Palau, Vanuatu), phần lớn không bị ảnh hưởng trực tiếp do đại dịch nhưng đã bị tàn phá bởi sự sụp đổ của du lịch và lữ hành toàn cầu, cũng như ảnh hưởng của lốc xoáy Harold và Yasa.
Tỷ lệ nhiễm COVID-19 vẫn tăng nhanh tại nhiều quốc gia trong khu vực như Indonesia, Malaysia, Philippines, Campuchia và Thái Lan. Các biện pháp giãn cách xã hội để ngăn chặn đại dịch đã được tái triển khai trên khắp khu vực để ứng phó với những đợt bùng phát lẻ tẻ. Việc di chuyển xung quanh nơi làm việc và các khu vực bán lẻ vẫn tiếp tục bị hạn chế tại nhiều nơi do lây nhiễm kéo dài và chậm tiến tiêm chủng chậm. Những yếu tố này cùng với tình trạng mất việc làm, mất thu nhập và việc không chắc chắn về các chính sách kéo dài, tiếp tục đè nặng lên niềm tin của người tiêu dùng và hạn chế chi tiêu tư nhân. Trong khi đó, sự phục hồi mạnh mẽ của xuất khẩu hàng hóa trong khu vực nhờ thương mại hàng hóa sản xuất toàn cầu tăng cao, đang hỗ trợ cho tăng trưởng khu vực. Tuy nhiên, những lo ngại về sự lây lan của vi rút và các biện pháp hạn chế đi lại đang diễn ra tiếp tục hạn chế hoạt động kinh tế của các nền kinh tế phụ thuộc vào du lịch trong khu vực (như Campuchia, Fiji, Palau, Thái Lan, Vanuatu).
Triển vọng tăng trưởng chung
Theo WB, tăng trưởng khu vực EAP được dự báo sẽđạt 7,7% năm 2021. Trong đó, Trung Quốc có tăng trưởng cao nhất khu vực với 8,5 %, cao hơn so với các dự báo hồi tháng 1, nhờ xuất khẩu tăng mạnh cùng lực cầu được giải phóng khi dịch COVID-19 được kiểm soát hiệu quả ở quốc gia này. Tăng trưởng ở phần còn lại của khu vực dự kiến đạt 4,0% năm 2021, thấp hơn so với dự báo tháng 1, do tác động của các đợt bùng phát dịch bệnh và các ngành du lịch, lữ hành toàn cầu hồi phục chậm.
Sang năm 2022, WB dự báo tăng trưởng của khu vực sẽ ở chỉ đạt 5,3% khi kinh tế Trung Quốc tăng chậm lại ở mức 5,4% do việc giảm dần các chính sách hỗ trợ tài khóa và tiền tệ, cùng việc thắt chặt hơn các quy định về đảm bảo an toàn vĩ mô. Trong khi đó, phần còn lại của khu vực dự kiến sẽ tăng tốc lên 5,0% vào năm 2022 khi sự phục hồi trở nên chắc chắn.
Mức tăng trưởng dự kiến sẽ không đủđể lấy lại hoàn toàn những thiệt hại do đại dịch gây ra tại nhiều nền kinh tế trong khu vực. Khoảng 2/3 các nền kinh tế vẫn sẽ có tăng trưởng thấp hơn so với trước đại dịch cho đến năm 2022 và dự kiến sẽ vẫn tiếp diễn trong một thời gian dài. Chỉ 1/3 các nền kinh tế EAP có thể phục hồi trở lại mức trước đại dịch trong năm 2021 hoặc đầu năm 2022 nhưng vẫn thấp hơn các dự báo tăng trưởng được đưa ra trước dịch COVID-19, với chênh lệch dao động từ khoảng 1% (Trung Quốc) đến hơn 10 % ở Campuchia và Philippines.
Theo đánh giá của WB, vẫn có sự không chắc chắn đáng kể về triển vọng tăng trưởng của khu vực. Số ca nhiễm COVID-19 có thể vẫn sẽ tăng cao ở một số nước, do tiến độ tiêm chủng chậm và sựlan nhanh của các biến thể mới, đòi hỏi nhiều quốc gia phải tiếp tục thực hiện các biện pháp để kiểm soát dịch bệnh. Tỷ lệ tiêm chủng tăng lên sẽ giúp giảm số lượng các ca nhiễm trong năm 2022 và 2023 ở hầu hết các nền kinh tế khu vực. Mức độ hồi phục của khu vực sẽđặc biệt phụ thuộc vào các yếu tố như: khả năng đáp ứng các cam kết tiêm chủng của các nền kinh tế lớn trong khu vực, mức độ lan tỏa từ các nền kinh tế khác, các điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia.
Bảng 1. Dự báo tăng trưởng GDP (%) một số nền kinh tế khu vực Đông Á và Thái Bình Dương
Tại Indonesia, tăng trưởng dự kiến sẽ phục hồi trở lại 4,4% trong năm 2021 và đạt 5 % vào năm 2022. Nhưng nhiều việc làm trong các dịch vụ gia tăng giá trị thấp như thương mại, vận tải và lưu trú, đã bị mất trong cuộc khủng hoảng và sẽ phục hồi chậm. Kinh tế Thái Lan được dự báo sẽ tăng trưởng trở lại ở mức 2,2% trong năm 2021 và 5,1% vào năm 2022 nhờ sự phục hồi của du lịch và lữ hành trên toàn cầu.
GDP của Philippines được dự báo tăng lần lượt 4,7% và 5,9 vào năm 2021 và 2022, với tổng sản phẩm đạt mức trước đại dịch vào năm 2022. Tốc độ tăng trưởng của Malaysia cũng sẽ phục hồi lên 6% vào năm 2021 với điều kiện các ổ dịch COVID-19 được kiểm soát và tiến trình tiêm vắc xin được đẩy mạnh. Việt Nam được dự báo sẽ có mức độ tăng trưởng cao nhất khu vực Đông Nam Á với GDP trung bình 6,6% năm 2021 và 2022.
Trong khi đó, cuộc khủng hoảng chính trị tại Myanmar đã thêm một lần nữa tác động mạnh đến nền kinh tế của nước này vốn đã bị suy yếu bởi COVID-19. Triển vọng kinh tế hiện rất không rõ ràng. Bất kì sự phục hồi kinh tế nào nếu có trong năm 2021 sẽ đòi hỏi phải có sự bình thường hóa các điều kiện trong nước. Triển vọng thương mại quốc tế và đầu tư nước ngoài cũng đã trở nên tồi tệ do những hạn chế nghiêm trọng về tài chính và vận chuyển hàng hóa, môi trường kinh doanh xấu, cùng các phản ứng của các chính phủ và doanh nghiệp nước ngoài.
Mặc dù kinh tế EAP đã có sự phục hồi nhưng theo đánh giá của WB, tăng trưởng của 2/3 số quốc gia trong khu vực vẫn sẽ ở mức thấp hơn mức trước đại dịch cho tới năm 2022. Dịch COVID-19 làm giảm tốc độ tăng trưởng tiềm năng ở nhiều nền kinh tế, đặc biệt là những nơi chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ các đợt bùng phát dịch bệnh kéo dài và sự sụp đổ của ngành du lịch và thương mại toàn cầu.
Báo cáo cũng chỉ ra các rủi ro đối với tăng trưởng của khu vực là nguy cơ tái bùng phát các đợt lây nhiễm COVID-19 lớn trong bối cảnh tiến độ tiêm chủng chậm trễ; căng thẳng tài chính gia tăng và có thể trầm trọng hơn do nợ tăng cao; nguy cơ từ những ảnh hưởng nặng nề và kéo dài hơn từ đại dịch, như đầu tư thấp và nguồn nhân lực bị xói mòn. Những bất ổn do thiên tai cũng là nguồn thường xuyên gây ra rủi ro suy giảm nghiêm trọng đối với nhiều quốc gia.
Theo SBV