Ngày 27/10/2021, Ngân hàng Thanh toán quốc tế (BIS) công bố thống kê hoạt động cho vay qua biên giới và chỉ số thanh khoản tính đến cuối quý II/2021.
Trong quý II/2021, trái quyền ngân hàng qua biên giới giảm 308 tỷ USD so với quý trước xuống 36 nghìn tỷ USD, nhưng tăng 2% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân của sự sụt giảm này là do trái quyền đối với các nền kinh tế phát triển (AEs) giảm mạnh. Trái lại, trái quyền ngân hàng qua biên giới tại các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi (EMDEs) tăng 7 tỷ USD so với quý trước, dẫn dắt bởi tín dụng vào châu Á - Thái Bình Dương, châu Phi, và Trung Đông, riêng trái quyền hợp nhất đối với Trung Quốc chiếm gần 18% lên trên 970 tỷ USD. Tỷ trọng trái quyền hải ngoại đối với ngân hàng cho vay và khách hàng vay dưới dạng ngoại tệ chủ chốt tiếp tục giảm. Về chỉ số thanh khoản toàn cầu, tăng trưởng tín dụng ngoại tệ dưới dạng USD và EUR đối với người không cư trú có dấu hiệu tăng nhẹ, trong khi tín dụng dưới dạng JPY vào EMDEs lao dốc. Tín dụng đối với người cư trú tăng trở lại mức trước đại dịch, tài chính trái phiếu tiếp tục tăng cao hơn tín dụng ngân hàng.
Trái quyền ngân hàng qua biên giới giảm trong quý II
Thống kê ngân hàng trong nước (LBS) của BIS cho thấy, trái quyền qua biên giới của các ngân hàng chiến lược toàn cầu giảm 308 tỷ USD trong quý II/2021 xuống tổng giá trị 36 nghìn tỷ USD. Nguyên nhân là do trái quyền đối với AEs giảm tới 338 tỷ USD. Trong đó, trái quyền đối với các định chế phi ngân hàng giảm 140 tỷ USD, chủ yếu bắt nguồn từ xu hướng giảm của các ngân hàng tại Nhật Bản (-150 tỷ USD). Mặc dù giảm so với quý trước, nhưng phục hồi nhanh từ (-1%) lên mức tăng 2% so với cùng kỳ năm trước nhờ hoạt động kinh tế tăng trở lại. Trong đó, trái quyền đối với các EMDE và trung tâm tài chính hải ngoại đều tăng tới 3% so với cùng kỳ năm trước.
Báo cáo của các ngân hàng cho thấy, mức sụt giảm này chủ yếu là trái quyền đối với khách hàng phi ngân hàng tại Mỹ, phản ánh tác động của những yếu tố mang tính định kỳ. Trái quyền qua biên giới tô điểm cho xu hướng mở rộng hoạt động ngân hàng quốc tế, bao gồm cả trái quyền trong nước (đối với người cư trú) dưới dạng ngoại tệ.
Đến cuối quý II/2021, trái quyền quốc tế dưới dạng USD chạm ngưỡng 19 nghìn tỷ USD, tiếp tục tăng vững kể từ năm 2011. Hơn một thập kỷ qua, đà tăng của trái quyền hải ngoại - hoặc trái quyền dưới dạng ngoại tệ mà cả ngân hàng cho vay và khách hàng vay - được dẫn dắt bởi xu hướng mở rộng trái quyền quốc tế dưới dạng USD. Kết quả là, tỷ trọng trái quyền hải ngoại dưới dạng USD giảm từ 62% vào giữa năm 2018 xuống dưới 57% vào giữa năm 2021.
Trong những năm gần đây, trái quyền dưới dạng EUR cũng ghi nhận xu hướng tương tự, tăng từ 9 nghìn tỷ USD vào đầu năm 2017 lên 12 nghìn tỷ USD vào quý II/2021. Đà tăng trái quyền quốc tế dưới dạng EUR chủ yếu bắt nguồn từ trái quyền đối với khách hàng vay tại khu vực đồng euro với mức tăng 3% so với cùng kỳ năm trước, tương phản với mức tăng trưởng âm tại những phân đoạn khác trên thị trường. Kết quả là, tỷ trọng trái quyền hải ngoại dưới dạng EUR trong tổng giá trị trái quyền quốc tế dưới dạng EUR giảm từ 20% vào giữa năm 2018 xuống 16% vào giữa năm 2021.
Xu hướng sụt giảm trái quyền hải ngoại thể hiện rất rõ nét và kéo dài, chủ yếu chuyển sang JPY. Về tổng thể, trái quyền dưới dạng JPY tăng nhanh kể từ năm 2015, vượt 2 ngìn tỷ USD vào cuối quý II/2021. Kết quả này phản ánh đà tăng trái phiếu dưới dạng JPY của các ngân hàng hoạt động tại Nhật Bản đối với khách hàng từ những nước khác, với xu hướng mở rộng bền vững từ trước năm 2018. Trái quyền đối với khách hàng vay tại Nhật Bản cũng ghi nhận diễn biến tương tự, với mức tăng trưởng kỷ lục tới 2 con số vào năm 2020. Trái lại, tỷ trọng trái quyền hải ngoại dưới dạng JPY trong tổng giá trị trái quyền toàn cầu giảm từ khoảng 40% vào đầu năm 2010 xuống dưới 15% vào giữa năm 2021.
Trái quyền đối với Trung Quốc dẫn dắt EMDEs
Sau khi tăng mạnh trong quý trước, trái quyền ngân hàng qua biên giới đối với các EMDE ghi nhận mức tăng khiêm tốn trong quý II/2021 với 7 tỷ USD. Trong đó, trái quyền đối với Mỹ Latinh và các nước mới nổi châu Âu sụt giảm nhẹ, nhưng tăng mạnh đối với châu Á - Thái Bình Dương, châu Phi, và Trung Đông, đẩy mức tăng trung bình về trái quyền đối với EMDEs lên 3% so với cùng kỳ năm trước.
Trái quyền đối với các nước Mỹ Latinh tiếp tục giảm thêm 10 tỷ USD trong quý II/2021 (-9% so với cùng kỳ năm trước), mặc dù thấp hơn so với quý trước, đưa tổng giá trị sụt giảm lên trên 50 tỷ USD trong 4 quý vừa qua. Trong quý II/2021, trái quyền đối với hầu hết các quốc gia hàng đầu Mỹ Latinh tiếp tục giảm: Brazil giảm 7 tỷ USD, Chilê và Colombia cùng giảm 1 tỷ USD, Venezuela và Mêhicô cùng giảm 0,5 tỷ USD.
Sau khi tăng trên 1 tỷ USD trong quý trước, trái quyền đối với các nước mới nổi châu Âu giảm tới 2 tỷ USD, đa phần là do trái quyền đối với Thổ Nhĩ Kỳ giảm 5 tỷ USD và giảm 2 tỷ USD đối với CHLB Nga (chủ yếu dựa trên báo cáo của các ngân hàng đang hoạt động tại VQ Anh, CH Pháp, Hà Lan). Trái lại, trái quyền đối với CH Séc và Ba Lan tăng trên 1 tỷ USD.
Tại châu Phi và Trung Đông, trái quyền quốc tế tiếp tục tăng thêm 9 tỷ USD, tăng 5% so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu là trái quyền đối với Tiểu vương quốc A rập (tăng 9 tỷ USD), đối với Ai Cập, Qatar, Kuwait cùng tăng 2 tỷ USD, góp phần bù đắp xu hướng sụt giảm trái quyền đối với CH Nam Phi và Liberia (mỗi nước giảm 3 tỷ USD).
Trong quý II/2021, trái quyền đối với châu Á - Thái Bình Dương tăng 11 tỷ USD, tăng 6% so với cùng kỳ năm trước. Trong quý I/2021, Trung Quốc dẫn dắt xu hướng tăng này với trái quyền mới tăng thêm 15 tỷ USD - khách hàng lớn nhất trong nhóm EMDEs từ trước đến nay. Trong số này, các ngân hàng tại Macao, Hồng Kông và VQ Anh báo cáo là đã mở rộng trái quyền đối với Trung Quốc đại lục tới 34 tỷ USD, chủ yếu là cấp vốn cho các định chế phi ngân hàng. Tại những quốc gia khác trong khu vực, trái quyền đối với Malaysia, Indonesia và Thái Lan ghi nhận xu hướng giảm.
Gần đây, các phương tiện truyền thông Trung Quốc tập trung vào rủi ro tín dụng ngân hàng đối với thị trường bất động sản. Thống kê hoạt động ngân hàng hợp nhất (CBS) của BIS có thể sáng tỏ những rủi ro này theo khu vực và loại hình cho vay, chủ yếu là tín dụng ngân hàng.
Đến cuối quý II/2021, trái quyền của các ngân hàng trên thế giới đối với Trung Quốc (bao gồm trái quyền qua biên giới và trong nước) tăng lên 970 tỷ USD, chiếm khoảng 18% tổng giá trị trái quyền đối với các EMDE, gấp trên 2 lần so với trái quyền đối với những EMDEs chủ chốt khác như Mêhicô (400 tỷ USD), Brazil và Hàn Quốc (cùng trên 350 tỷ USD).
Về khách hàng vay vốn, các ngân hàng toàn cầu tăng cường giót vốn vào khu vực tư nhân phi ngân hàng Trung Quốc và đã lên tới 450 tỷ USD, tăng 40% so với đầu năm 2020. Trong giai đoạn này, trái quyền đối với các định chế tài chính phi ngân hàng và khu vực chính thức (kể cả chính phủ và NHTW) cũng mở rộng với mức tăng lần lượt 31% và 12%. Trái lại, trái quyền đối với những ngân hàng không liên quan tại Trung Quốc có xu hướng giảm dần, từ 40% vào cuối năm 2017 xuống dưới 30% vào quý II/2021 trong tổng trái quyền nước ngoài.
Các ngân hàng cũng mở rộng tiềm năng cho vay khác tại Trung Quốc, nâng tổng trái quyền lên trên 180 tỷ USD vào cuối quý II/2021, chiếm gần 20% tổng giá trị trái quyền đối với Trung Quốc. Việc mở rộng trái quyền tại Trung Quốc tập trung vào số ít hệ thống ngân hàng. Trong số này, các ngân hàng VQ Anh là chủ nợ lớn nhất, với khoảng 258 tỷ USD vào giữa năm 2021, tăng trên 20% so với cuối năm 2019. Các ngân hàng Mỹ và ở mức độ thấp hơn, các ngân hàng Nhật Bản báo cáo tổng giá trị trái quyền 139 tỷ USD và 99 tỷ USD. Các ngân hàng có trụ sở chính tại Hàn Quốc và Đài Bắc nắm giữ lần lượt 68 tỷ USD và 66 tỷ USD, trong khi các ngân hàng Pháp nắm giữ 54 tỷ USD trái quyền đối với Trung Quốc.
Chỉ số thanh khoản toàn cầu vào cuối tháng 6/2021
Các chỉ số thanh khoản toàn cầu (GLIs) của BIS ghi chép tín dụng dành cho các khách hàng phi ngân hàng, bao gồm cả tín dụng ngân hàng và đầu tư trên các thị trường trái phiếu, tập trung chủ yếu vào cho vay ngoại tệ dưới dạng ba đồng tiền chủ chốt (USD, EUR, JPY) đối với người không cư trú.
Trong quý II/2021, tín dụng ngoại tệ dưới dạng USD và EUR tăng cao, nhưng giảm đối với JPY. Đến cuối quý II/2021, tín dụng ngoại tệ dưới dạng USD đối với khách hàng vay bên ngoài nước Mỹ vào khoảng 13 nghìn tỷ USD, tăng 5% so với cùng kỳ năm trước; tín dụng ngoại tệ dưới dạng EUR đối với khách hàng vay bên ngoài khu vực đồng euro tăng tương đương quý trước với tổng dư nợ khoảng 3,6 nghìn tỷ EUR (tương đương 4,3 nghìn tỷ USD), tăng 4% so với cùng kỳ năm trước. Trong khi đó, tín dụng ngoại tệ dưới dạng JPY đối với khách hàng vay bên ngoài Nhật Bản giảm 10% so với cùng kỳ năm trước xuống 45 nghìn tỷ JPY (tương đương 0,4 nghìn tỷ USD).
Trong ba loại tiền trên, cho vay ngoại tệ trên thị trường trái phiếu tăng nhanh hơn nhiều so với tín dụng ngân hàng quốc tế. Trong quý II/2021, tín dụng ngân hàng đối với người không cư trú phục hồi nhẹ với mức tăng 1% về cho vay USD và giảm 1% về cho vay EUR so với cùng kỳ năm trước. Trong giai đoạn này, chứng khoán phát hành dưới dạng USD và EUR tăng vững tới 8% so với cùng kỳ năm trước; nhưng chứng khoán phát hành dưới dạng JPY giảm tới 3%, mặc dù vẫn thấp xa mức sụt giảm 14% tín dụng ngân hàng dưới dạng JPY, sự sụt giảm này liên quan chủ yếu đến việc sử dụng JPY tại các trung tâm tài chính hải ngoại.
Trở lại với tín dụng đối với người cư trú, quý II chứng kiến sự phục hồi tốc độ tăng trưởng trước đại dịch lên 5% về cho vay USD và EUR so với cùng kỳ năm trước, và tăng 3% về cho vay JPY. Từ đầu năm 2020, cho vay đối với người cư trú tăng nhanh hơn nhiều so với cho vay đối với người không cư trú, chủ yếu là cho vay đối với các chính phủ.
Sự sụt giảm tín dụng JPY đối với EMDEs thể hiện rõ rệt tại tất cả các khu vực với mức giảm 23% so với cùng kỳ năm trước, riêng châu Phi và Trung Đông chỉ giảm 17% so với cùng kỳ năm trước (sau hai quý tăng tới 2 con số), và Chilê là 1 trong số 14 EMDEs ghi nhận tốc độ tăng trưởng dương. Trong khi đó, tín dụng USD và EUR tiếp tục tăng tại hầu hết các khu vực, riêng Mỹ Latinh giảm lần lượt 1% và 11% so với cùng kỳ năm trước, sâu nhất là tại Argentina và Brazil.
Tỷ trọng tài chính trái phiếu dưới dạng USD và EUR tại các EMDE ghi nhận mức tăng cao nhất kể từ khi bắt đầu xảy ra khủng hoảng tài chính toàn cầu. Trong đó, tài chính trái phiếu dưới dạng USD chiếm 49% (quý III/2008 chiếm 31%). Trong vài năm gần đây, trái phiếu phát hành dưới dạng USD và EUR tăng khá nhanh so với tín dụng ngân hàng. Trong quý II/2021, trái phiếu nợ phát hành dưới dạng USD giảm xuống mức tăng 9% so với cùng kỳ năm trước, nhưng vẫn vượt tín dụng ngân hàng dưới dạng đồng bạc xanh này; trái phiếu nợ phát hành dưới dạng EUR có xu hướng trở lại đà tăng tốc trước đại dịch. Sau 4 quý sụt giảm liên tiếp và giảm nhanh hơn so với tín dụng ngân hàng, trái phiếu nợ phát hành dưới dạng JPY đảo chiều xuống mức giảm 15% so với cùng kỳ năm trước, trong khi tín dụng ngân hàng giảm tới 28% so với cùng kỳ năm trước.
Theo SBV