Phí bảo hiểm tiền gửi là khoản tiền mà tổ chức nhận tiền gửi đóng góp để bảo hiểm cho khoản tiền gửi của đối tượng có tiền gửi được bảo hiểm theo quy định.

Đây là công cụ quan trọng không chỉ giúp đảm bảo năng lực tài chính và khả năng ứng phó khi xảy ra rủi ro của tổ chức bảo hiểm tiền gửi để bảo vệ người gửi tiền và giữ vững an toàn hoạt động ngân hàng, mà còn tạo sự công bằng và cạnh tranh lành mạnh giữa các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi.

Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTGVN) là tổ chức tài chính nhà nước hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, có vai trò rất quan trọng trong thực thi chính sách công của Nhà nước. Tuy nhiên, để giảm thiểu gánh nặng cho ngân sách nhà nước và với tư cách là một bên cùng hưởng lợi, nhằm nâng cao ý thức hoàn thiện mình, nên các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi cũng phải có nghĩa vụ đóng góp tài chính thông qua phí bảo hiểm tiền gửi.

 Luật Bảo hiểm tiền gửi quy định phí bảo hiểm tiền gửi là khoản tiền mà tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi phải nộp cho BHTGVN để bảo hiểm cho tiền gửi của người gửi tiền được bảo hiểm tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Theo quy định của Luật Bảo hiểm tiền gửi, khung phí bảo hiểm tiền gửi do Thủ tướng Chính phủ quy định theo đề nghị của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Căn cứ khung phí, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định mức phí bảo hiểm tiền gửi cụ thể đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi trên cơ sở kết quả đánh giá và phân loại các tổ chức này.

Trên thế giới có hai hình thức áp dụng phí bảo hiểm tiền gửi đối với các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, bao gồm: Phí bảo hiểm tiền gửi đồng hạng và phí bảo hiểm tiền gửi theo mức độ rủi ro.

Phí bảo hiểm tiền gửi đồng hạng là việc áp dụng mức phí chung cho tất cả các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Theo các chuyên gia, áp dụng phí bảo hiểm tiền gửi đồng hạng tạo thuận lợi cho việc tính và nộp phí, không đặt gánh nặng quá lớn lên một số tổ chức nhận tiền gửi khi mới tham gia bảo hiểm tiền gửi. Phù hợp với cơ chế phí này là mô hình bảo hiểm tiền gửi chuyên chi trả, được thành lập chủ yếu thực hiện nhiệm vụ là chi trả bảo hiểm cho người gửi tiền khi tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả tiền gửi cho người gửi tiền hoặc phá sản, nhằm khẳng định cam kết của Chính phủ về bảo vệ người gửi tiền. Tuy nhiên, phí bảo hiểm tiền gửi đồng hạng cũng bộc lộ một số điểm yếu khi không có tác dụng khuyến khích các tổ chức nhận tiền gửi hạn chế rủi ro trong hoạt động, hạn chế tính cạnh tranh bình đẳng giữa các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi.

Phí bảo hiểm tiền gửi theo mức độ rủi ro là việc áp dụng mức phí cho từng tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi trên cơ sở đánh giá rủi ro trong hoạt động của mỗi tổ chức. Tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi có rủi ro cao sẽ chịu mức phí cao và ngược lại. Phương pháp này khuyến khích cạnh tranh, tạo thêm động lực giúp các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi nâng cao hiệu quả hoạt động, giảm thiểu rủi ro. Và như vậy, quyền lợi người gửi tiền cũng sẽ được đảm bảo tốt hơn và gánh nặng của ngân sách nhà nước trong xử lý trường hợp đổ vỡ của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi cũng được giảm bớt. Phù hợp hơn với cơ chế phí này là mô hình bảo hiểm tiền gửi chi trả với quyền hạn mở rộng hay mô hình bảo hiểm tiền gửi giảm thiểu rủi ro. Ngoài nhiệm vụ bảo vệ tốt nhất quyền lợi của người gửi tiền, tổ chức bảo hiểm tiền gửi còn tham gia có hiệu quả vào hoạt động giám sát ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác.

Ở Việt Nam, từ khi thành lập đến nay, BHTGVN thực hiện thu phí bảo hiểm tiền gửi theo phương thức thu phí trước và thu phí đồng hạng với mức 0,15%/tổng số dư tiền gửi bình quân của các loại tiền gửi được bảo hiểm tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Điều này đã giúp BHTGVN chủ động nguồn lực tài chính để triển khai nhanh chóng khi cần phải chi trả tiền gửi được bảo hiểm cho người gửi tiền, từ đó giúp bảo đảm kịp thời quyền và lợi ích chính đáng của người gửi tiền, giảm thiểu nguy cơ có thể gây mất trật tự an ninh an toàn xã hội tại các địa bàn có sự kiện chi trả.

BHTGVN cũng đang nghiên cứu xây dựng cơ chế tính phí bảo hiểm tiền gửi theo mức độ rủi ro của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi đề xuất áp dụng tại Việt Nam, hướng tới phù hợp với thông lệ quốc tế, đồng thời tạo động lực cho các tổ chức nhận tiền gửi nâng cao chất lượng hoạt động để được hưởng mức phí thấp.

Hiện nay, theo Luật Bảo hiểm tiền gửi, Thông tư số 312/2016/TT-BTC và Thông tư 20/2020/TT-BTC quy định chế độ tài chính đối với BHTGVN, Quỹ dự phòng nghiệp vụ của BHTGVN được hình thành từ các nguồn sau: Tiền thu phí bảo hiểm tiền gửi hàng năm; thu nhập từ hoạt động đầu tư nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi sau khi trích một phần để trang trải chi phí hoạt động của BHTGVN theo quy định; các khoản tiền bảo hiểm không có người nhận theo quy định; số tiền còn lại (nếu có) từ việc thanh lý tài sản của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi theo quy định; chênh lệch thu chi tài chính còn lại hàng năm sau khi trích lập Quỹ đầu tư phát triển và Quỹ khen thưởng, phúc lợi theo quy định; và thu nhập từ các khoản cho vay đặc biệt đối với các tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt. Theo đó, phí bảo hiểm tiền gửi do các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi nộp cho BHTGVN được đưa vào Quỹ dự phòng nghiệp vụ.

Theo Thông tư 312/2016/TT-BTC ngày 24/11/2016 của Bộ Tài chính hướng dẫn chế độ tài chính của BHTGVN, thì toàn bộ phí bảo hiểm tiền gửi do tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi nộp cho BHTGVN được bổ sung vào Quỹ dự phòng nghiệp vụ dùng để chi trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền khi tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn và cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có văn bản chấm dứt hoạt động để thanh lý hoặc tòa án có quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản theo quy định của Luật Phá sản.

Bên cạnh nghiệp vụ chi trả bảo hiểm tiền gửi, BHTGVN còn được phép sử dụng Quỹ dự phòng nghiệp vụ để cho vay đặc biệt khi tham gia kiểm soát đặc biệt các tổ chức tín dụng theo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2017, Luật Bảo hiểm tiền gửi (khoản 13 Điều 13),, Thông tư số 08/2021/TT-NHNN ngày 6/7/2021 (thay thế Thông tư số 01/2018/TT-NHNN) của Ngân hàng Nhà nước về cho vay đặc biệt đối với TCTD được kiểm soát đặc biệt và các văn bản hướng dẫn của BHTGVN.

Từ khi thành lập đến nay, quy mô Quỹ dự phòng nghiệp vụ của BHTGVN luôn tăng trưởng năm sau cao hơn năm trước. Tính đến ngày 31/12/2021, Quỹ dự phòng nghiệp vụ của BHTGVN đạt 75,9 nghìn tỷ đồng, tăng 18,04% so với cùng kỳ năm 2020. Theo đánh giá của các chuyên gia, với nguồn lực tài chính tăng trưởng khá được bồi đắp hàng năm, BHTGVN có thể sẵn sàng chi trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền khi cần thiết để bảo vệ tốt nhất quyền lợi của họ và tham gia có hiệu quả vào quá trình cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng; đồng thời góp phần gia tăng niềm tin của người dân đối với các tổ chức nhận tiền gửi.

Theo DIV