Báo cáo Triển vọng kinh tế toàn cầu tháng 12/2021 của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) nhận định, kinh tế thế giới tiếp tục phục hồi, nhưng đã không còn duy trì được động lực và ngày càng trở nên mất cân đối.

Trong khi một số nền kinh tế đang phục hồi nhanh chóng, số khác có nguy cơ bị bỏ lại phía sau, đặc biệt là các nước có thu nhập thấp, nơi tỷ lệ tiêm chủng thấp, và nhu cầu vẫn chưa phục hồi hoàn toàn. OECD ước tính trong điều kiện thích nghi tốt hơn với đại dịch và sự hỗ trợ của chính sách tài khóa, tiền tệ tiếp tục được duy trì, kinh tế toàn cầu phục hồi ở mức 5,6% trong năm 2021 và giảm dần xuống còn 4,5% vào năm 2022 và 3,2% vào năm 2023.

Động lực từ sự phục hồi mạnh mẽ sau việc mở cửa trở lại hiện đang được nới lỏng ở nhiều quốc gia trong bối cảnh nguồn cung vẫn tiếp tục bị tắc nghẽn, chi phí đầu vào tăng và tiếp tục ảnh hưởng của đại dịch. Áp lực lạm phát mạnh hơn và kéo dài hơn đã xuất hiện ở tất cả nền kinh tế đang ở giai đoạn đầu bất thường của chu kỳ và tình trạng thiếu lao động đang xuất hiện mặc dù việc làm và giờ làm việc vẫn chưa hồi phục hoàn toàn. Chi phí thực phẩm và năng lượng đã tăng mạnh, với tác động mạnh nhất đến các hộ gia đình có thu nhập thấp, cũng như giá cả trong các ngành hàng lâu bền, nơi cung cấp các nút thắt tập trung nhiều nhất. Những yếu tố này làm cho triển vọng trở nên không chắc chắn và tăng đáng kể những thách thức về chính sách.

S phc hi vn không đng đu

Sự phục hồi trong hoạt động kinh tế toàn cầu kể từ giữa năm 2020 đã diễn ra mạnh mẽ hơn dự kiến, với tăng trưởng ở hầu hết các nền kinh tế OECD hiện đã gần bằng hoặc cao hơn mức trước đại dịch. Kết quả này nhờ vào những hỗ trợ chính sách kịp thời và quy mô lớn dành cho doanh nghiệp và hộ gia đình ngay từ khi cuộc khủng hoảng bắt đầu.

Tuy nhiên, sức mạnh của sự phục hồi vẫn chưa cho phép nền kinh tế thế giới thoát khỏi những tác động của đại dịch. GDP toàn cầu nửa đầu năm 2021 vẫn thấp hơn 3,5% so với dự báo trước đại dịch. Hơn nữa, sự tăng trưởng này không đồng đều. Hầu hết các nền kinh tế phát triển được dự đoán sẽ quay trở lại mức tăng trưởng trước đại dịch vào năm 2023, nhưng với số nợ lớn hơn và tăng trưởng cơ bản vẫn thấp hơn tiềm năng. Một sốít các nền kinh tế thị trường mới nổi có khả năng hồi phục hoàn toàn, trong khi đa số còn lại dường như không đạt được mức kỳ vọng trước đại dịch, đặc biệt là ở các nước có thu nhập thấp hơn. Tăng trưởng GDP toàn cầu hàng quý được ước tính sẽ tiếp tục ổn định trong quý III/2021, với Trung Quốc và Hoa Kỳ tăng trưởng chậm lại trong khi khu vực đồng euro, Ấn Độ và một số nền kinh tế xuất khẩu năng lượng phục hồi mạnh hơn. Một số nền kinh tế châu Á - Thái Bình Dương có mức tăng trưởng đặc biệt thấp do tác động bởi biến thể Delta và nguồn cung hạn chế.

Sự phục hồi nhanh chóng của nhu cầu trong khi sản xuất hồi phục chậm hơn ở một số lĩnh vực đã dẫn đến thiếu hụt nguồn cung. Mặc dù số các ca nhiễm mới và tử vong do COVID-19 đã giảm đáng kể ở nhiều nền kinh tế phát triển, các đợt bùng phát vẫn tiếp tục xảy ra ở một số nơi trên thế giới làm gia tăng và kéo dài thêm một số hạn chế về nguồn cung. Những trở ngại này có thể là một yếu tố cản trở đà phục hồi kinh tế thời gian qua. Việc phong tỏa và các biện pháp hạn chế lây nhiễm COVID-19 trên khắp thế giới tiếp tục góp phần làm gián đoạn nguồn cung, kìm hãm sự phục hồi, và gây áp lực tăng giá mạnh lên một số mặt hàng.

Lạm phát toàn phần và lạm phát giá tiêu dùng đã tăng lên đáng kể ở hầu hết các quốc gia trong năm 2021 và được dự báo sẽ cao hơn so với trước đại dịch ở nhiều quốc gia, mặc dù nhìn chung vẫn phù hợp với các mục tiêu của ngân hàng trung ương. Lạm phát giá tiêu dùng được dự báo sẽ đạt đỉnh vào cuối năm 2021 sau đó sẽ giảm dần xuống mức phù hợp. Tại các nền kinh tế OECD, lạm phát giá tiêu dùng hàng năm dự kiến sẽ giảm từ mức xấp xỉ 5% vào cuối năm 2021 xuống còn khoảng 3,5% vào cuối năm 2022, và 3% vào năm 2023. Tỷ lệ việc làm dự kiến sẽ tăng dần đến trong năm 2022 - 2023 với mức độ khác nhau giữa các quốc gia, trong đó tỷ lệ thất nghiệp tại các nền kinh tế OECD giảm xuống còn hơn 5%, thấp hơn tỷ lệ trước đại dịch.

Xu hướng phc hi tiếp din

Hầu hết các nền kinh tế phát triển đang gần hoàn tất việc tiêm chủng hai mũi cho nhóm dân cư đủ điều kiện, nguy cơ làn sóng lây nhiễm mới và tử vong đang giảm dần, mặc dù tỷ lệ lây nhiễm vẫn còn tăng cao ở một số nơi. Trong khi phần lớn các quốc gia còn lại trên thế giới tỷ lệ tiêm chủng còn ở mức thấp và vẫn có nguy cơ bùng phát các đợt dịch lớn tiếp theo. Tuy nhiên, việc triển khai vắc xin tới các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển được kỳ vọng có cải thiện trong năm 2022-2023. Do đó, trừ khi các biến thể mới, nguy hiểm hơn của vi rút xuất hiện, COVID-19 sẽ không còn là yếu tố tác động lớn đến kết quả kinh tế toàn cầu những năm tới. Điều này có nghĩa là một số gián đoạn nguồn cung liên quan đến đại dịch trong 18 tháng qua sẽ được giảm bớt. Đại dịch suy yếu cũng sẽ thúc đẩy quá trình bình thường hóa mô hình nhu cầu giữa hàng hóa và dịch vụ. Các yếu tố này sẽ tạo điều kiện cho sự phục hồi kinh tế toàn cầu tiếp tục và loại bỏ một số áp lực lạm phát, nhưng sẽ không làm cho sự phục hồi cân bằng hơn.

Một yếu tố quan trọng thúc đẩy và hỗ trợ động lực phục hồi cho đến nay là các chính sách tài khóa và tiền tệ phù hợp cùng các điều kiện tài chính thuận lợi. Tại hầu hết các nước OECD, các biện pháp kích thích đã dần được loại bỏ khi khu vực tư nhân hoạt động bình thường trở lại, áp lực lạm phát trung hạn tăng lên và chênh lệch tăng trưởng thu hẹp.

Với những điều kiện trên, OECD dự báo sự phục hồi toàn cầu sẽ vẫn tiếp tục nhưng không đồng đều vàđang chậm lại trong hai năm tới. Kinh tế thế giới dự kiến sẽđạt mức tăng trưởng 5,6% năm 2021 và tăng chậm lại còn 4,5% năm 2022 và 3,2% vào năm 2023. Tăng trưởng GDP của các nền kinh tế OECD cũng phục hồi ở mức 5,3% năm 2021 xuống 4% năm 2022 và 2,5% vào năm 2023.

Các ri ro vi tăng trưởng

Theo OECD, những rủi ro chủ yếu đối với dự báo này là sự xuất hiện các biến thể COVID-19 mới, dễ truyền hơn, đặc biệt nếu tốc độ tiêm vắc xin chậm và hiệu quả của vắc xin suy yếu sẽ làm giảm triển vọng tăng trưởng. Ngược lại, tiến độ triển khai vắc xin nhanh và hiệu quả trên toàn cầu sẽ thúc đẩy lòng tin và tiêu dùng của người tiêu dùng và doanh nghiệp, qua đó cải thiện tăng trưởng trong năm 2022 - 2023 với tăng trưởng toàn cầu quay trở lại lộ trình như trước đại dịch. Cùng lúc, nhu cầu cao hơn có thể tăng kỳ vọng trên các thị trường tài chính về việc lãi suất sớm tăng lên tại các nền kinh tế phát triển, tạo ra khó khăn cho một số nền kinh tế thị trường mới nổi.

Bên cạnh đó, lạm phát có thể tiếp tục gây bất lợi, do áp lực nguồn cung dai dẳng hơn dự đoán hoặc giá năng lượng tăng mạnh và kéo dài, kéo theo định giá lại trên thị trường tài chính để đón đầu những thay đổi chính sách tiền tệ trong tương lai. Định giá lại có thể làm phát lộ các lỗ hổng tồn tại do nợ cao, định giá tài sản kéo dài ở một số thị trường và sự phục hồi yếu ớt tại nhiều nền kinh tế thị trường mới nổi và có thu nhập thấp hơn.

Lạm phát giá tiêu dùng toàn phần được dự báo đạt đỉnh tại phần lớn các nền kinh tế phát triển và các thị trường mới nổi trong quý đầu của năm 2022, trước khi giảm dần xuống mức vừa phải. Sự tăng giá hàng hóa, gồm giá năng lượng, thiếu nguồn cung, chi phí vận tải cao là những yếu tố chính đẩy giá cả tăng cao trên toàn cầu. Tác động của các giá cả đầu vào tăng đối với lạm phát giá tiêu dùng được kỳ vọng sẽ giảm dần từ 2022-2023 khi các điểm nghẽn được giải phóng và nhu cầu tiêu dùng quay trở lại bình thường.

Các rủi ro chính là lạm phát tiếp tục tăng khiến ho các ngân hàng trung ương lớn buộc phải thắt chặt chính sách tiền tệ sớm hơn và ở mức độ lớn hơn so với kế hoạch. Kết quả này bắt nguồn từ một số yếu tố có thể xảy ra, bao gồm gián đoạn nguồn cung kéo dài, lạm phát kỳ vọng thay đổi theo hướng tăng lên, áp lực thị trường lao động hoặc nếu giá của nhiều loại hàng hóa và dịch vụ bắt đầu tăng đáng kể.

Rủi ro hiện có sẵn là sự kết hợp của các yếu tố nguồn cung đã góp phần thắt chặt thị trường năng lượng có thể tiếp tục đẩy giá năng lượng toàn cầu lên cao hơn nữa. Giá năng lượng tăng sẽ phân bổ lại thu nhập giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng; làm tăng chi phí sản xuất, đẩy giá tiêu dùng lên ở tất cả các nền kinh tế nhưng doanh thu xuất khẩu sẽ tăng, và đầu tư vào các nước sản xuất năng lượng cũng có thể tăng lên. Tuy nhiên, tác động của giá năng lượng tăng lên hoạt động toàn cầu là tiêu cực, do xu hướng tiêu thụ năng lượng của các nhà nhập khẩu thường cao hơn của các nhà sản xuất năng lượng.

Ngoài ra, rủi ro từ việc tăng trưởng của Trung Quốc chậm lại cũng nổi lên nếu các vấn đề trong lĩnh vực bất động sản và với nguồn cung cấp điện tại quốc gia này vẫn tồn tại hoặc tăng lên, cùng với tác động tiêu cực đến các nền kinh tế khác, đặc biệt là các nhà xuất khẩu hàng hóa và tại khu vực châu Á.

Đối với triển vọng thương mại toàn cầu, mối đe dọa chính trong ngắn hạn vẫn là sự tái bùng phát của các đợt lây nhiễm COVID-19 dẫn đến việc hạn chế di chuyển và đóng cửa giao thương. Các căng thẳng thương mại và áp lực xung quanh các vấn đề chủ quyền chiến lược cũng thể hiện một nguy cơ khác. Trong năm 2018- 2019, thương mại toàn cầu gần như đình trệ do căng thẳng địa chính trị, làm nổi bật nhu cầu về một môi trường ổn định cho phép thương mại phát triển. Nhiều quốc gia và khu vực hiện đang thúc đẩy các chính sách phát triển ngành cho các công nghệ mang tính chiến lược. Rủi ro tiềm ẩn là các biện pháp chính sách này có thể dẫn đến căng thẳng thương mại hoặc gia tăng các hạn chế, đặc biệt là khi các rào cản đối với thương mại vẫn còn cao so với trước năm 2018.

Theo SBV