Tiền gửi là yếu tố quan trọng đảm bảo hoạt động an toàn, lành mạnh và hiệu quả của hệ thống ngân hàng. Do đó, việc xây dựng cơ chế bảo đảm phù hợp cho tiền gửi sẽ giúp tạo thêm lòng tin cho người gửi tiền vào các tổ chức tín dụng (TCTD). Hạn mức bảo hiểm tiền gửi nên có giới hạn, đáng tin cậy và bảo vệ toàn bộ được 90- 95% số người gửi tiền.

Đây là một khuyến nghị quan trọng tại Hướng dẫn nâng cao về phát triển hệ thống bảo hiểm tiền gửi hiệu quả năm 2014 của Hiệp hội Bảo hiểm tiền gửi quốc tế (IADI).

Hạn mức bo him tin gi 75 triu đng - góc nhìn t 3 cơ s xác đnh hn mc theo thông l quc tế:

Tại Việt Nam, theo Luật Bảo hiểm tiền gửi, hạn mức bảo hiểm tiền gửilà số tiền tối đa mà tổ chức BHTG trả cho tất cả các khoản tiền gửi được bảo hiểm của một người tại một tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi khi phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm.Hạn mức này được Thủ tướng Chính phủ quy định theo đề nghị của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) trong từng thời kỳ để phù hợp với sự thay đổi điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước.

Những năm đầu, chính sách bảo hiểm tiền gửi được triển khai tại Việt Nam, hạn mức bảo hiểm tiền gửi (bao gồm cả gốc lẫn lãi) của một cá nhân tối đa là 30 triệu đồng, được quy định tại Nghị định 89/1999/NĐ-CP của Chính phủ ngày 1/9/1999. Đến năm 2005, tại Nghị định 109/2005/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 89/1999/NĐ-CP, hạn mức này được điều chỉnh lên 50 triệu đồng.

Từ ngày 5/8/2017, hạn mức bảo hiểm tiền gửi đã được nâng từ 50 triệu đồng lên mức 75 triệu đồng theo Quyết định số 21/2017/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Việc điều chỉnh hạn mức bảo hiểm tiền gửi thể hiện cam kết mạnh mẽ của Chính phủ, NHNN trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền. Tuy nhiên, hạn mức 75 triệu đồng được đánh giá là chỉ bảo vệ toàn bộ được 87,32% tại thời điểm hạn mức mới có hiệu lực.

Trong năm 2020, Chính phủ đã công bố dự thảo Quyết định của Thủ tướng về hạn mức trả tiền bảo hiểm tiền gửi, với định hướng nâng lên so với mức áp dụng hiện nay. Theo dự thảo Quyết định, số tiền bảo hiểm được trả cho tất cả các khoản tiền gửi được bảo hiểm theo quy định của Luật Bảo hiểm tiền gửi (gồm cả gốc và lãi) của một cá nhân tại một tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửitối đa là 125 triệu đồng.

Từ thông lệ quốc tế và thực tế Việt Nam cho thấy, hạn mức bảo hiểm tiền gửi 75 triệu đồng hiện nay không còn phù hợp với 3 cơ sở xác định hạn mức bảo hiểm tiền gửi cho mỗi quốc gia tại Bộ nguyên tắc cơ bản phát triển hệ thống bảo hiểm tiền gửi hiệu quả (2014) và hướng dẫn của IADI. Cụ thể:

Thứ nhất, về tỷ lệ người gửi tiền được bảo hiểm toàn bộ/tổng số người gửi tiền được bảo hiểm:

Như đã nêu ở trên, tỷ lệ này ở Việt Nam đang là 87,72%, thấp hơn so với mức khuyến nghị 90-95% của IADI. Nếu nâng mức bảo hiểm tiền gửi lên 125 triệu đồng, gấp 2 lần GDP bình quân đầu người thì tỷ lệ này mới tăng lên mức 90,94%, nằm trong khoảng khuyến nghị của IADI.

Thứ hai, đảm bảo phù hợp với năng lực tài chính của tổ chức bảo hiểm tiền gửi:

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế và hệ thống ngân hàng, năng lực tài chính của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam cũng gia tăng đáng kể. Từ nguồn vốn được cấp ban đầu là 1.000 tỷ đồng, đến nay tổng tài sản của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã đạt gần 78 nghìn tỷ đồng, trong đó quỹ dự phòng nghiệp vụ (thể hiện khả năng chi trả của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam theo quy định của Luật Bảo hiểm tiền gửi) đạt khoảng hơn 70 nghìn tỷ đồng. Đây là nền tảng quan trọng giúp Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam có đủ khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ người gửi tiền theo thông lệ, chuẩn mực quốc tế; cũng như tham gia có hiệu quả vào quá trình tái cơ cấu hệ thống các TCTD thông qua hoạt động hỗ trợ tài chính.

Bên cạnh nguồn vốn tự có, Luật Bảo hiểm tiền gửi còn cho phép Bảo hiểm tiền gửiViệt Nam được tiếp nhận thêm các nguồn vốn hỗ trợ khác, gồm: (i) tiếp nhận hỗ trợ theo nguyên tắc có hoàn trả từ ngân sách nhà nước theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ hoặc vay của TCTD, tổ chức khác có bảo lãnh của Chính phủ trong trường hợp nguồn vốn của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam tạm thời không đủ để trả tiền bảo hiểm; (ii) tiếp nhận các nguồn tài trợ của các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài để tăng cường năng lực hoạt động.

Như vậy, trong trường hợp nguồn vốn tạm thời không đủ để trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền, Bảo hiểm tiền gửiViệt Nam có thể huy động thêm nguồn vốn khác phục vụ yêu cầu chi trả.

Thứ ba, đối với yêu cầu đảm bảo phù hợp với các điều kiện kinh tế vĩ mô.

Những năm gần đây, kinh tế vĩ mô của Việt Nam được duy trì ổn định, lạm phát được kiểm soát ở mức thấp, tăng trưởng kinh tế dự báo tiếp tục khả quan. GDP bình quân đầu người danh nghĩa (chưa tính đến yếu tố lạm phát) của Việt Nam tăng trưởng tốt, năm 2020đạt tương đương 2.750 USD. Theo đó, hạn mức bảo hiểm tiền gửi 75 triệu đồng hiện nay chỉ bằng 1,2 lần GDP bình quân đầu người năm 2020, thấp hơn so với thông lệ quốc tế.

Từ những phân tích nêu trên cho thấy, với triển vọng tăng trưởng tích cực trong trung hạn của Việt Nam và sự gia tăng đáng kể về năng lực tài chính cũng như các nguồn hỗ trợ của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, việc điều chỉnh tăng hạn mức bảo hiểm tiền gửi là hoàn toàn khả thi và cần thiết để bảo vệ tốt hơn cho người gửi tiền theo thông lệ và chuẩn mực quốc tế;góp phần củng cố niềm tin của người dân đối với hệ thống các TCTD,tạo điều kiện cho các tổ chức này hoạt động an toàn, hiệu quả.

Tăng hn mc bo him tin gi - tăng nim tin ca người gi tin:

Chính phủ và NHNN đang quyết liệt triển khai tái cơ cấu hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu. Quan điểm, mục tiêu xuyên suốt trong quá trình này là phải đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người gửi tiền, củng cố lòng tin của người dân vào hệ thống ngân hàng, không gây đổ vỡ ngoài tầm kiểm soát.

Về nguyên tắc, chính sách bảo hiểm tiền gửi hướng tới bảo vệ những người gửi tiền có quy mô tiền gửi nhỏ nhưng chiếm số đông, góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống các TCTD, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hoạt động ngân hàng.

Kinh nghiệm quốc tế cũng cho thấy hạn mức bảo hiểm tiền gửi còn có tác động đến tâm lý và hành vi của người gửi tiền. Hạn mức cao ở mức hợp lý giúp người gửi tiền yên tâm hơn, từ đó hạn chế việc rút tiền ra khỏi ngân hàng, tránh hiện tượng rút tiền hàng loạt, gây đổ vỡ hệ thống.

Theo Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú, nếu nâng mức bảo hiểm tiền gửi lên 125 triệu đồng, gấp 2 lần GDP bình quân đầu người năm 2020, thì hạn mức này có thể bảo vệ toàn bộ được 90,94% người gửi tiền, nằm trong khoảng khuyến nghị của IADI.

Hạn mức bảo hiểm tiền gửi 125 triệu đồng được đánh giá không chỉ phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế, điều kiện phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam,mà còn theo kịp thực tế hoạt động của hệ thống các TCTD. Như vậy, việc điều chỉnh tăng hạn mức bảo hiểm tiền gửi là cần thiết để bảo vệ tốt hơn cho người gửi tiền theo thông lệ và chuẩn mực quốc tế, qua đó góp phần củng cố niềm tin của người dân đối với hệ thống các TCTD, tạo điều kiện cho các tổ chức nàyhoạt động an toàn, hiệu quả hơn, đặc biệt là trong bối cảnh đại dịch Covid-19 đang tác động bất lợi tới nền kinh tế.

Thời gian tới, cùng với sự phát triển của hệ thống ngân hàng theo các chuẩn mực quốc tế, đòi hỏi tổ chức bảo hiểm tiền gửi cần nâng cao tính chuyên nghiệp, đủ mạnh về tiềm lực tài chính với thể chế đồng bộ để có thể xử lý hiệu quả các ngân hàng có tổng tài sản ở mức trung bình trở xuống khi cần thiết, chứ không dừng lại ở mức chỉ đủ chi trả và xử lý rủi ro thanh khoản của các quỹ tín dụng nhân dân như những năm qua.

Do đó, cần nâng cao năng lực tài chính của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, tăng cường vai trò của tổ chức bảo hiểm tiền gửi trong việc hỗ trợ có hiệu quả quá trình tái cơ cấu hệ thống các TCTD. Để thực hiện mục tiêu này, cần phát huy vai trò của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam theo những nhiệm vụ được đưa ra tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các TCTD năm 2017 như: Cho vay đặc biệt; mua trái phiếu dài hạn của TCTD hỗ trợ; đánh giá tính khả thi của phương án phục hồi TCTD được kiểm soát đặc biệt; tham gia xây dựng phương án phá sản TCTD được kiểm soát đặc biệt trình NHNN xem xét, quyết định. Về phía cơ quan quản lý,cần nghiên cứu để trao thêm quyền hạn cho Bảo hiểm tiền gửiViệt Nam phù hợp quy định pháp luật và điều kiện Việt Nam,để tổ chức này ngày càng đảm nhận tốt hơn vai trò, trọng trách bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hoạt động ngân hàng và nền kinh tế.

Theo DIV

Tài liu tham kho:

http://www.div.gov.vn; http://www.chinhphu.vn;