Đẩy nhanh luật hóa nghị quyết 42: Giải pháp đúng hướng đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế

Nghị quyết 42/2017/QH14 được ban hành ngày 21/06/2017 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng (TCTD) sau hơn 6 năm thực hiện, đã mang lại nhiều kết quả tích cực, góp phần khơi thông dòng vốn, nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội.

Theo Ngân hàng Nhà nước (NHNN), hệ thống TCTD xử lý được trung bình 5,800 tỷ đồng nợ xấu mỗi tháng, cao hơn gần 2,300 tỷ đồng so với thời điểm trước khi có Nghị quyết. Tổng cộng, hơn 443,800 tỷ đồng nợ xấu đã được xử lý. Tỷ lệ khách hàng tự nguyện trả nợ tăng từ khoảng 20% lên đến hơn 36%, hình thức xử lý nợ thông qua phát mại tài sản bảo đảm cũng đạt gần 21%.

Tuy nhiên, kể từ ngày Nghị quyết 42 hết hiệu lực (01/01/2024) đã xuất hiện khoảng trống pháp lý, đặc biệt là việc TCTD không còn quyền thu giữ, xử lý tài sản bảo đảm.

Tỷ lệ nợ xấu có xu hướng gia tăng đang là áp lực đối với lĩnh vực ngân hàng, đặc biệt trong bối cảnh hiện tại khi 2025 được xác định là năm tăng tốc, bứt phá để về đích cả nhiệm kỳ 2021-2025 và Chính phủ đề ra mục tiêu tăng trưởng ít nhất 8%, tạo thế, tạo đà, tạo lực, tạo khí thế để nước ta tăng trưởng 2 con số trong những năm tiếp theo.

Ngày 15/05/2025 vừa qua, NHNN đã công bố thông tin về Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các TCTD. Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các TCTD đang được Chính phủ chuẩn bị trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 9, khóa XV.

Đẩy nhanh luật hóa nghị quyết 42: Giải pháp đúng hướng đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế
Đẩy nhanh luật hóa nghị quyết 42: Giải pháp đúng hướng đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế

Ông Nguyễn Đức Lệnh - Phó Giám đốc NHNN, chi nhánh Khu vực 2 đánh giá, việc luật hóa Nghị quyết 42 không chỉ tác động điều chỉnh trực tiếp đối với công tác xử lý nợ xấu, xử lý TSBĐ để thu hồi nợ mà còn mang lại những kết quả to lớn hơn, toàn diện hơn về thực hiện nhiệm vụ ổn định kinh tế vĩ mô và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Thứ nhất, khi luật hóa quyền thu giữ TSBĐ nợ vay, góp phần nâng cao trách nhiệm của người vay vốn. Đó là trách nhiệm sử dụng vốn vay hiệu quả, đúng mục đích để hoàn trả nợ vay cả gốc và lãi. Điều này đặc biệt có ý nghĩa quan trọng trong toàn bộ quá trình vay vốn, sử dụng vốn và lập kế hoạch vay vốn. Chỉ có sử dụng vốn vay đúng mục đích, đúng theo kế hoạch kinh doanh mới phát huy hiệu quả vốn vay và đảm bảo khả năng trả nợ vay của chính khách hàng.

Ở góc độ pháp luật và quan hệ tín dụng, khi người vay vốn không trả được nợ, quyền thu hồi nợ và xử lý các đảm bảo nợ thuộc người cho vay đúng với bản chất tín dụng, ý nghĩa này đòi hỏi trách nhiệm thực hiện quyền và nghĩa vụ của người vay vốn và sử dụng vốn tín dụng ngân hàng.

Thứ hai, luật hóa quyền thu giữ TSBĐ hạn chế nợ xấu phát sinh và tăng trưởng tín dụng hiệu quả. Ý nghĩa này, xuất phát từ chính bản chất tín dụng và yêu cầu trách nhiệm của người vay vốn. Khi thực hiện nguyên tắc hoàn trả, người vay vốn tăng cường trách nhiệm trong việc sử dụng vốn vay hiệu quả, đúng mục đích, vốn đi vào sản xuất kinh doanh, thương mại dịch vụ, từ đó tạo sản phẩm, tạo thu nhập và có dòng tiền để trả nợ vay ngân hàng. Theo đó, đảm bảo hạn chế nợ quá hạn, nợ xấu phát sinh, đồng thời không chỉ góp phần thúc đẩy doanh nghiệp phát triển mà còn thúc đẩy tăng trưởng hoạt động sản xuất kinh doanh và tăng trưởng toàn bộ nền kinh tế. Đồng thời tạo điều kiện để các TCTD tiếp tục mở rộng và tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả.

Thứ ba, tác động trực tiếp đến kết quả xử lý nợ xấu. Khi luật hóa quyền thu giữ TSBĐ và xử lý TSBĐ nợ vay sẽ góp phần xử lý nợ xấu có hiệu quả do giảm chi phí và thời gian xử lý. Tác động này đặc biệt có ý nghĩa trong trường hợp khách hàng cố ý chây ỳ trong việc hợp tác với ngân hàng để xử lý TSBĐ cũng như thực hiện trách nhiệm trả nợ vay ngân hàng.

Đẩy nhanh luật hóa nghị quyết 42: Giải pháp đúng hướng đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế
Đẩy nhanh luật hóa nghị quyết 42: Giải pháp đúng hướng đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế

PGS.TS. Nguyễn Hữu Huân - Giảng viên cấp cao Đại học kinh tế TPHCM đánh giá về việc xử lý tài sản bảo đảm. Hiện nay, khi cá nhân hoặc doanh nghiệp vay vốn, họ cần ý thức rõ, trong trường hợp không thể trả nợ, tài sản bảo đảm sẽ bị xử lý để thu hồi nợ. Tuy nhiên, quy trình xử lý tài sản hiện tại, đặc biệt là khi phải thông qua hệ thống tòa án, thường mất rất nhiều thời gian. Thủ tục kéo dài này ảnh hưởng đến tiến độ thu hồi nợ của ngân hàng, làm tăng chi phí cho cả ngân hàng và người vay.

Cụ thể, khi một khoản nợ xấu phải chuyển sang nhóm 5 - có khả năng mất vốn - ngân hàng buộc phải trích lập dự phòng rủi ro đến 100%, tạo áp lực tài chính lớn lên ngân hàng trong suốt thời gian chờ xử lý tài sản (có thể kéo dài đến 2 năm). Đồng thời, trong thời gian này, tiền lãi, lãi phạt vẫn tiếp tục phát sinh, khiến nghĩa vụ trả nợ của người vay càng trở nên nặng nề hơn. Đến khi tài sản được xử lý xong, số tiền thu hồi sau khi trừ các khoản lãi, phí cũng thường không còn nhiều, gây thiệt hại cho cả hai bên.

Vì vậy, đề xuất cho phép các ngân hàng thương mại được quyền chủ động xử lý TSBĐ , đặc biệt đối với các khoản nợ đã chuyển sang nhóm 5 là hoàn toàn hợp lý. Việc này không những giúp rút ngắn thời gian xử lý, giảm chi phí, mà còn góp phần hạn chế tỷ lệ nợ xấu và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống tín dụng. Đây là một nội dung cần được xem xét sửa đổi trong khuôn khổ pháp lý hiện hành càng sớm càng tốt.

Đẩy nhanh luật hóa nghị quyết 42: Giải pháp đúng hướng đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế

Về việc cho phép NHNN được quyết định khoản vay đặc biệt, ông Huân đánh giá, là một giải pháp hợp lý và cần thiết trong bối cảnh hiện nay. Trước đây, các chương trình tín dụng ưu đãi như các gói vay hỗ trợ doanh nghiệp hoặc kích cầu thường phải do Chính phủ phê duyệt, ví dụ như gói hỗ trợ 500,000 tỷ đồng, đều cần sự thông qua của Quốc hội hoặc quyết định từ Thủ tướng Chính phủ.

Tuy nhiên, với quy trình như vậy, việc triển khai các chính sách tín dụng thường bị chậm trễ, làm giảm hiệu quả của chính sách, đặc biệt trong các tình huống cần phản ứng nhanh để hỗ trợ nền kinh tế hoặc thúc đẩy các lĩnh vực ưu tiên. Trong khi đó, NHNN lại không có đủ thẩm quyền để chủ động triển khai các gói tín dụng hỗ trợ lãi suất 0% mà không cần chờ phê duyệt từ cấp cao hơn.

Do đó, việc trao quyền cho NHNN được phép chủ động cho vay đặc biệt với lãi suất 0%, không có TSBĐ trong một số trường hợp cụ thể, cần có mục tiêu rõ ràng ví dụ như: Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ, phát triển năng lượng tái tạo, hoặc thúc đẩy lĩnh vực ưu tiên trong chiến lược phát triển kinh tế… là hoàn toàn cần thiết. Từ đó, giúp rút ngắn thời gian ban hành chính sách, tăng tính linh hoạt trong điều hành và nâng cao hiệu quả kích cầu đúng lúc, đúng đối tượng.

Khi luật hóa Nghị quyết 42 có tác động tích cực, nhưng việc cho phép ngân hàng chủ động xử lý các khoản nợ có khả năng mất vốn sẽ giúp rút ngắn thời gian xử lý, từ đó tạo điều kiện cho ngân hàng sớm hoàn nhập dự phòng và giảm áp lực chi phí dự phòng rủi ro. Dù mức độ tác động không thể gọi là đột biến, nhưng nếu được triển khai hiệu quả, chính sách này sẽ góp phần làm giảm tỷ lệ nợ xấu một cách đáng kể trong trung và dài hạn.

Tuy nhiên, cần lưu ý rằng việc tỷ lệ nợ xấu có thực sự cải thiện hay không còn phụ thuộc rất lớn vào bối cảnh kinh tế vĩ mô trong thời gian tới. Với những bất ổn địa chính trị trên thế giới hiện nay như xung đột vũ trang, chiến tranh thương mại, và các chuỗi ảnh hưởng từ đại dịch COVID-19, nền kinh tế Việt Nam đang chịu nhiều tác động tiêu cực, khiến cho tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong nước gặp nhiều khó khăn, làm gia tăng nguy cơ phát sinh nợ xấu mới.

Thực tế cho thấy, phần lớn doanh nghiệp hiện nay đang phải đối mặt với hàng loạt cú sốc liên tiếp, từ đại dịch, đến chiến tranh, gián đoạn chuỗi cung ứng, rồi nay là những căng thẳng thương mại toàn cầu. Trong bối cảnh đó, chỉ những doanh nghiệp có nền tảng tài chính lành mạnh và khả năng thích ứng tốt mới có thể trụ vững và vượt qua được giai đoạn khó khăn này.

Do vậy, dù luật hóa Nghị quyết 42 là một giải pháp cần thiết và đúng hướng, nhưng để đạt được hiệu quả thực chất, cần phải song hành cùng các chính sách hỗ trợ phục hồi kinh tế, cải thiện môi trường đầu tư và nâng cao sức chống chịu của khu vực doanh nghiệp.

Đẩy nhanh luật hóa nghị quyết 42: Giải pháp đúng hướng đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế

Ông Nguyễn Quang Huy - CEO Khoa Tài chính - Ngân hàng, Trường đại học Nguyễn Trãi, đánh giá, việc luật hóa Nghị quyết 42 về xử lý nợ xấu thông qua Dự luật sửa đổi Luật các TCTD có ý nghĩa chiến lược và hệ thống.

Nghị quyết 42 (ban hành từ năm 2017, có thời hạn) đã chứng minh được hiệu quả rõ rệt trong việc xử lý nợ xấu, đặc biệt ở các điểm then chốt như: Cho phép TCTD thu giữ tài sản bảo đảm, xử lý tài sản bảo đảm thuận lợi hơn, và áp dụng thủ tục rút gọn trong tố tụng. Tuy nhiên, tính “tạm thời” khiến các TCTD và nhà đầu tư chưa thể yên tâm triển khai các chiến lược xử lý nợ quy mô lớn hoặc dài hạn.

Đẩy nhanh luật hóa nghị quyết 42: Giải pháp đúng hướng đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế

Việc luật hóa Nghị quyết 42 mang lại 3 tác dụng cốt lõi:

Thứ nhất, tạo hành lang pháp lý ổn định, bền vững giúp gỡ bỏ rào cản pháp lý mang tính tạm thời, tăng tính tiên lượng và giảm rủi ro pháp lý cho các TCTD, các nhà đầu tư mua bán nợ và cả hệ thống ngân hàng.

Thứ hai, tăng tốc xử lý nợ xấu trong bối cảnh kinh tế đang chịu áp lực tăng trưởng thấp, dòng tiền doanh nghiệp yếu, bất động sản đóng băng và nguy cơ nợ xấu gia tăng.

Cuối cùng, thúc đẩy phát triển thị trường mua bán nợ: Nhà đầu tư quốc tế thường e dè vì thiếu nền tảng pháp lý ổn định; luật hóa Nghị quyết 42 sẽ mở đường để hình thành thị trường nợ thứ cấp, công khai và chuyên nghiệp hơn.

Trong dự luật sửa đổi Luật Các TCTD có đề xuất, chuyển thẩm quyền quyết định cho vay đặc biệt từ Thủ tướng Chính phủ sang NHNN, đặc biệt với khoản vay lãi suất 0% và không có tài sản bảo đảm là bước cải cách thể chế thể hiện sự nâng cấp trong quản trị rủi ro hệ thống và phản ứng chính sách linh hoạt.

Chuyển quyền giúp rút ngắn thời gian phê duyệt, phản ứng nhanh với nguy cơ rủi ro lan truyền: Trong các tình huống cần hỗ trợ khẩn cấp. Lấy ví dụ như ngân hàng rút tiền hàng loạt, mất thanh khoản tạm thời, khả năng hành động nhanh của NHNN là tối quan trọng để “chặn virus” lây lan trong hệ thống tài chính.

Đồng thời, giúp củng cố vai trò “người cho vay cuối cùng” của NHNN. Cơ chế này tương đồng các nước phát triển - nơi ngân hàng trung ương cần được trao quyền độc lập kỹ thuật để ứng phó hiệu quả. Việc ra quyết định kỹ thuật như cho vay đặc biệt cũng nên thuộc về cơ quan có năng lực chuyên môn sâu như NHNN, thay vì cấp Thủ tướng vốn tập trung vào các quyết sách vĩ mô.

Nhìn chung, luật hóa Nghị quyết 42 không chỉ là một điều chỉnh mang tính kỹ thuật luật pháp mà là sự dịch chuyển có tính chiến lược, nhằm gia cố thể chế, nâng cao năng lực điều hành, phòng ngừa rủi ro hệ thống và mở đường cho phục hồi kinh tế. Những cải cách này, nếu được thông qua và triển khai minh bạch, hiệu quả, sẽ là bệ đỡ quan trọng để hệ thống ngân hàng Việt Nam vững vàng hơn trong một giai đoạn toàn cầu nhiều bất định.

Đẩy nhanh luật hóa nghị quyết 42: Giải pháp đúng hướng đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế

Nguồn: fili.vn