Bức tranh nợ xấu của ngành Ngân hàng và một số kiến nghị

Chủ nhật, 13 Tháng 3 2022 09:06

Trong điều kiện Nghị quyết 42 sắp hết hiệu lực (tháng 8/2022), áp lực nợ xấu đang ngày một hiện hữu, việc gia hạn Nghị quyết 42 và tiến tới là luật hóa Nghị quyết 42 là những bước đi cần thiết.

Cơ cấu lại hệ thống tổ chức tín dụng (TCTD) gắn với xử lý nợ xấu là nhiệm vụ trọng tâm của ngành Ngân hàng trong giai đoạn 2016-2020. Trong đó, giai đoạn 2016-2019, ngành ngân hàng đã khá thành công với nhiệm vụ trọng tâm này khi đảm bảo an toàn hoạt động hệ thống, có những bước tiến trong việc cơ cấu lại các TCTD, và đặc biệt giảm đáng kể tỷ lệ nợ xấu toàn ngành (tỷ lệ nợ xấu nội bảng và nợ xấu gộp lần lượt giảm từ 2,5% và 10,1% năm 2016 xuống còn 1,6% và 4,4% năm 2019) với sự góp sức không nhỏ từ việc triển khai Nghị quyết số 42/2017/QH14 (Nghị quyết 42) của Quốc Hội về thí điểm cơ chế xử lý nợ xấu của các TCTD. Tuy nhiên, đại dịch Covid-19 bùng phát từ đầu năm 2020 và tiếp tục kéo dài với diễn biến phức tạp, đã ảnh hưởng sâu sắc tới toàn bộ nền kinh tế, gây những tác động tiêu cực tới hoạt động của các doanh nghiệp, ảnh hưởng nghiêm trọng tới khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Không ngạc nhiên khi tỷ lệ nợ xấu toàn ngành ngân hàng tăng mạnh kể từ năm 2020, và dự kiến sẽ còn tăng trong giai đoạn tới. Trên thực tế, để ứng phó với diễn biến tiêu cực của nợ xấu, các TCTD đã chủ động phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro (tỷ lệ bao phủ nợ xấu bình quân của 28 NHTM niêm yết và Agribank (chiếm khoảng 80% thị phần tổng tài sản) đã tăng lên mức 150% cuối năm 2021, là mức cao nhất từ trước tới nay), song không thể phủ nhận nợ xấu vẫn còn tiềm ẩn rất nhiều rủi ro, gánh nặng đối với hệ thống TCTD là không nhỏ. Trong điều kiện Nghị quyết 42 sắp hết hiệu lực (tháng 8/2022), áp lực nợ xấu đang ngày một hiện hữu, việc gia hạn Nghị quyết 42 và tiến tới là luật hóa Nghị quyết 42 là những bước đi cần thiết.

Tỷ lệ nợ xấu có xu hướng tăng từ năm 2020

Số liệu từ NHNN cho thấy, cuối năm 2021 tỷ lệ nợ xấu nội bảng là 1,9% (tăng 0,21 điểm % so với cuối năm 2020), nếu tính thêm nợ bán cho VAMC thì con số này là 3,9%. Tỷ lệ nợ xấu gộp (bao gồm nợ xấu nội bảng, nợ xấu bán cho VAMC chưa được xử lý và nợ xấu tiềm ẩn từ các khoản cơ cấu lại) tăng mạnh lên mức 7,31% cuối năm 2021 từ mức 5,1% cuối năm 2020 và gần tương đương với con số cuối năm 2017 (7,4%) - cũng là năm mà Nghị quyết 42 bắt đầu có hiệu lực (Hình 1).

Buc tranh no xau cua nganh Ngan hang va mot so kien nghi 2

Tỷ lệ nợ xấu giai đoạn 2016 - 2021 (% tổng dư nợ) ( Nguồn: NHNN)

Nợ xấu của hệ thống các TCTD gia tăng là điều đã được dự báo trước khi mà sự bùng phát của đại dịch Covid-19, và đặc biệt là làn sóng thứ 4 với biến chủng Delta trong năm 2021 đã gây ra các tổn thất nặng nề đối với các hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, sinh kế và đời sống của người dân. Theo báo cáo tài chính năm 2021 mới được các ngân hàng công bố, nợ xấu có xu hướng gia tăng rõ rệt tại một số ngân hàng, thí dụ như VPBank (tăng 60% so với 2020), VietinBank (49%), VIB (58%), HDB (43%)…v.v.; bình quân số dư nợ xấu 28 NHTM niêm yết và Agribank tăng 17,3% so với năm 2020.

Những biện pháp hỗ trợ từ phía Chính phủ, NHNN và các TCTD

Nhằm giải quyết những tác động tiêu cực từ dịch Covid-19, Chính phủ, NHNN và các TCTD đã có những giải pháp thiết thực, kịp thời giúp đảm bảo an toàn cho hoạt động hệ thống ngân hàng và hỗ trợ các doanh nghiệp vượt qua khó khăn như ban hành các Thông tư 01/03/14 nhằm thực hiện cơ cấu lại nợ, miễn, giảm lãi, phí nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng bởi dịch Covid-19. Kết quả, lũy kế từ cuối tháng 1/2020 đến hết năm 2021 đã có khoảng 616 nghìn tỷ đồng nợ đã được cơ cấu lại; đã miễn, giảm, hạ lãi suất cho trên 2,26 triệu khách hàng với tổng dự nợ hơn 3,9 triệu tỷ đồng bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh.

Số tiền ngành ngân hàng đã hỗ trợ nền kinh tế năm 2020 là khoảng 30,6 nghìn tỷ đồng. Năm 2021, con số này ước tính khoảng 52,9 nghìn tỷ đồng (chưa bao gồm trích lập dự phòng rủi ro theo Thông tư 01, 03 và 14). Năm 2022, theo Thông tư 14, các TCTD sẽ tiếp tục giảm lãi suất, phí, cơ cấu lại nợ…v.v.; với tổng mức hỗ trợ khoảng 20-25 nghìn tỷ đồng. Bên cạnh đó, Thông tư 01, 03 và 14 cũng giúp hệ thống ngân hàng ghi nhận từ từ các khoản nợ xấu, tăng thời gian chuẩn bị các nguồn lực cần thiết để có thể xử lý mà không gây ra cú sốc nợ xấu cho toàn ngành. Tuy nhiên, phải nhấn mạnh rằng Thông tư 14 hay các Thông tư 01, 03 chỉ trì hoãn việc ghi nhận phân nhóm nợ và nợ xấu trong 3 năm (2021-2023) mà không phải là trực tiếp giải quyết nợ xấu cho các TCTD. Mặc dù vậy, các TCTD đã chủ động phân nhóm nợ, trích lập dự phòng rủi ro nhằm tăng khả năng bao phủ, xử lý nợ xấu hiện tại và 2-3 năm tới.

Buc tranh no xau cua nganh Ngan hang va mot so kien nghi 3

Tỷ lệ bao phủ nợ xấu bình quân của 28 NHTM niêm yết và Agribank (%) (Nguồn: tính toán từ BCTC của các NHTM niêm yết.)

Điểm sáng từ hệ thống TCTD là tỷ lệ bao phủ nợ xấu toàn ngành đã tăng mạnh trong vòng 6 năm qua, từ mức 66% cuối năm 2016 lên đến mức 150% nhờ động thái chủ động trích lập DPRR của các NHTM niêm yết (Hình 2). Đáng chú ý là có những ngân hàng đã tích cực, chủ động trích lập dự phòng rủi ro cho toàn bộ các khoản nợ cơ cấu theo thông tư 14 trước thời hạn (như Vietcombank, BIDV) và tỷ lệ bao phủ nợ xấu hợp nhất còn đạt mức cao kỷ lục từ trước tới nay tại một số ngân hàng (Vietcombank đạt 424%, BIDV đạt 219%, ACB đạt 210%…v.v.); qua đó tăng “sức đề kháng” cho toàn hệ thống trước những diễn biến khó lường của đại dịch. Tuy nhiên, các ngân hàng nói riêng và hệ thống tài chính nói chung không thể chủ quan khi mà tỷ lệ bao phủ nợ xấu chỉ được tính toán với các khoản nợ xấu nội bảng, mà chưa tính đến các khoản nợ xấu bán cho VAMC chưa được xử lý và các khoản nợ xấu tiềm ẩn từ nợ tái cơ cấu, và khả năng chuyển các khoản nợ từ nhóm 1,2 thành nợ xấu do điều kiện kinh doanh của các doanh nghiệp không thuận lợi trong thời gian tới (tỷ lệ nợ xấu gộp cao gấp 3,8 lần tỷ lệ nợ xấu nội bảng cuối năm 2021).

Dự báo nợ xấu toàn ngành năm 2022

Trong năm 2022, những yếu tố vĩ mô trên thế giới và Việt Nam tiếp tục có tác động lớn tới tình hình hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, từ đó tác động tới diễn biến nợ xấu của hệ thống các TCTD. Những yếu tố được xem xét để dự báo nợ xấu trong năm 2022 bao gồm:

Môi trường vĩ mô thế giới 2022: các tổ chức quốc tế dự báo kinh tế toàn cầu sẽ tiếp tục phục hồi, nhưng đà tăng sẽ chậm lại do các nước sẽ dần thắt chặt chính sách tài khoá, tiền tệ nhằm ứng phó lạm phát đang ở mức cao (khoảng 3,5% so với mức 3,2% năm 2021 và 2% năm 2020) và dịch bệnh đã được kiểm soát tốt hơn. Tuy nhiên, trong tháng 1/2022, báo cáo cập nhật của các tổ chức quốc tế như WB, IMF, ADB, OECD…v.v. đều hạ dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2022 so với các dự báo trước đó. Trong đó, IMF (1/2022), dự báo tăng trưởng KTTG năm 2022 có thể đạt 4,4% (giảm 0,5 điểm %) so với dự báo hồi tháng 10/2021. Điều này phản ánh kinh tế thế giới vẫn sẽ diễn biến phức tạp do phải đối mặt với nhiều rủi ro, đặc biệt diễn biến khó lường của dịch Covid-19, lạm phát cao và căng thẳng địa chính trị giữa các quốc gia lớn dẫn đến các chính sách tiền tệ tài khóa thu hẹp, các hoạt động đầu tư thận trọng hơn sẽ suy giảm sức cầu, chắc chắn sẽ có những tác động không tích cực lên nền kinh tế Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp nói riêng, đặc biệt các doanh nghiệp trong lĩnh vực xuất nhập khẩu khi Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng.

Môi trường vĩ mô Việt Nam 2022: ở trong nước, nền kinh tế được dự báo sẽ tiếp tục đà phục hồi khi dịch bệnh cơ bản được kiểm soát, gia tăng độ bao phủ vaccine, từng bước mở cửa nền kinh tế trong trạng thái “bình thường mới”, chính sách tài khóa và tiền tệ hỗ trợ phục hồi, chương trình phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2022-2023 chính thức được thông qua…v.v. Đây được coi là những nền tảng quan trọng để nền kinh tế phục hồi nhanh. Dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam có thể đạt 6,5-7% năm 2022 và 7-7,5% năm 2023 (kịch bản tích cực); CPI bình quân tăng 3,5-3,8% năm 2022-2023; nhưng cũng có thể chỉ tăng trưởng 5-5,5% năm 2022 và 6% năm 2023 (kịch bản tiêu cực). Tuy nhiên, để đạt được cả mục tiêu tăng trưởng và CPI không hề dễ dàng khi Việt Nam phải đối mặt với một loạt thách thức. Một là những rủi ro bên ngoài như dịch bệnh, biến đổi khí hậu; lạm phát tăng cao dẫn đến việc các nước sớm thu hẹp chính sách tiền tệ, tăng lãi suất; rủi ro địa chính trị (khiến giá dầu và giá nguyên vật liệu tăng theo); Trung Quốc tăng trưởng chậm lại, ảnh hưởng đến cả cung và cầu hàng hóa, dịch vụ…v.v. Ở trong nước, tình hình dịch bệnh còn diễn biến phức tạp; giải ngân đầu tư công vẫn chậm, hoạt động bán lẻ phục hồi chậm do sức cầu vẫn còn yếu; thu - chi ngân sách tiếp tục đối diện với nhiều thách thức khi cơ cấu thu NSNN thiếu bền vững và chi tăng lên đáp ứng nhu cầu phòng chống dịch và phục hồi kinh tế - xã hội; sản xuất công nghiệp, hoạt động xuất nhập khẩu phụ thuộc nhiều vào sự hồi phục của các thị trường quốc tế; doanh nghiệp còn nhiều khó khăn và rủi ro nợ xấu gia tăng…v.v.

Môi trường pháp lý của Việt Nam có tác động đến nợ xấu hệ thống TCTD: trong thời gian qua, Chính phủ và NHNN đã nỗ lực hoàn thiện và tạo tiền đề cho các khung pháp lý về xử lý nợ xấu và nâng cao chất lượng tài sản hệ thống ngân hàng (Thông tư 11/2021/TT-NHNN về phân loại nợ và trích lập dự phòng, Thông tư 16/2021/TT-NHNN thắt chặt việc mua bán trái phiếu doanh nghiệp, dự thảo sửa đổi Thông tư 52/2018/TT-NHNN về đánh giá tổ chức tín dụng, dự thảo sửa đổi Nghị định 153/2020/NĐ-CP về thị trường trái phiếu doanh nghiệp …v.v.). Sàn giao dịch nợ VAMC chính thức đi vào hoạt động ngày 15/10/2021, được đánh giá là cần thiết, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng chịu ảnh hưởng to lớn do đại dịch Covid-19, góp phần tích cực tư vấn, hỗ trợ việc mua bán, cơ cấu nợ của các TCTD được diễn ra nhanh chóng, khách quan, công khai và minh bạch. Việc ban hành kịp thời các Thông tư 01, 03, và 14 của NHNN đã góp phần không nhỏ hỗ trợ các doanh nghiệp và giảm cú sốc nợ xấu, trích lập dự phòng rủi ro và tiếp cận vốn của người dân, doanh nghiệp trong bối cảnh dịch Covid-19. Bên cạnh đó, Nghị quyết 42, sau hơn 4 năm đi vào thực tiễn, đã có những hỗ trợ tích cực, tạo cơ chế hiệu quả, đồng bộ trong xử lý nợ xấu, lành mạnh hóa bảng cân đối của các TCTD.

Tuy nhiên, đến nửa cuối năm 2022, các vấn đề về khung pháp lý có thể xoay chuyển theo hướng không có lợi cho vấn đề xử lý nợ xấu của toàn ngành ngân hàng. Cụ thể, Thông tư 14 sẽ hết hiệu lực từ ngày 30/6/2022, và nếu không được gia hạn thì nợ xấu tiềm ẩn từ số dư nợ được cơ cấu theo Thông tư này sẽ được thể hiện rõ ràng hơn trên bảng cân đối tài sản của các ngân hàng, khiến rủi ro nợ xấu khả năng tăng cao. Hơn nữa, Nghị quyết 42 cũng sẽ hết hiệu lực từ 15/8/2022 và khi đó thì toàn bộ cơ chế thí điểm xử lý nợ xấu theo Nghị quyết này cũng sẽ kết thúc. Trong trường hợp Nghị quyết 42 không được gia hạn hoặc luật hóa sẽ gây ra việc thiếu hụt các cơ chế xử lý hiệu quả nợ xấu. Do đó, tiến độ cũng như hiệu quả xử lý nợ xấu của hệ thống TCTD sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực, gây ra tình trạng nợ xấu cũ chưa xử lý tiếp tục tồn đọng, quá trình xử lý nợ xấu mới phát sinh từ đại dịch sẽ kéo dài hoặc không thể giải quyết được, gây bất ổn cho hệ thống các TCTD nói riêng và toàn nền kinh tế nói chung.

Tóm lại, dự báo bối cảnh kinh tế Việt Nam và thế giới cùng với môi trường pháp lý cho hoạt động xử lý nợ xấu trong năm 2022 không hoàn toàn thuận lợi cho vấn đề giải quyết nợ xấu của hệ thống TCTD. Trong bối cảnh dịch bệnh vẫn còn tiếp diễn trong năm 2022, hoạt động kinh tế tiếp tục phục hồi song doanh nghiệp vẫn gặp nhiều khó khăn khiến nợ xấu có xu hướng gia tăng. Vấn đề nợ xấu có thể trở thành tâm điểm của thị trường tài chính Việt Nam trong năm 2022, khi mà tỷ lệ nợ xấu gộp đang ở mức cao nhất trong vòng 4 năm trở lại đây, phá vỡ thành quả tái cơ cấu các TCTD giai đoạn 2016 - 2020. Do có độ trễ, nợ xấu nội bảng được dự báo có thể lên mức 2,3-2,5% và nợ xấu gộp sẽ khoảng 6% trong năm 2022, và có thể còn ở mức cao hơn khi từ năm 2024, qui định giữ nguyên nhóm nợ hết hiệu lực (theo Thông tư 14), nếu tình hình phục hồi kinh tế thiếu khả quan.

Một số kiến nghị

Mặc dù tỷ lệ bao phủ nợ xấu của các TCTD đã được cải thiện rõ rệt, song rủi ro nợ xấu luôn tiềm ẩn. Trong khi đó, Nghị quyết 42 và Thông tư 14 sẽ hết hiệu lực trong vài tháng tới, khiến áp lực xử lý nợ xấu của hệ thống các TCTD kể từ quý 3/2022 là rất lớn. Do vậy, các giải pháp mạnh mẽ để xử lý triệt để nợ xấu, đặc biệt các giải pháp liên quan đến khung pháp lý, cần phải được đặc biệt chú trọng trong năm 2022 để nâng cao hiệu quả xử lý nợ xấu, tránh tình trạng nợ xấu cũ chưa được xử lý, nợ xấu mới gia tăng nhanh hơn nhằm tháo gỡ rủi ro tiềm tàng cho nền kinh tế.

Chính phủ nên xem xét đề xuất Quốc Hội sớm tổng kết Nghị quyết 42, tiến tới luật hóa Nghị quyết 42 trên cơ sở rà soát, hoàn thiện và hệ thống hóa các quy định pháp luật liên quan; hoặc ít nhất là gia hạn, có điều chỉnh phù hợp Nghị quyết 42 theo hướng tiếp thu các mặt được, giải quyết các tồn tại, vướng mắc trong quá trình thực thi. Kiến nghị này được đưa ra dựa trên những luận điểm sau:

Thực tế chứng minh Nghị quyết 42 đã mang lại rất nhiều kết quả tích cực cho công tác xử lý nợ xấu, trong đó có 4 kết quả nổi bật:

Thứ nhất, việc triển khai Nghị quyết 42 đã được thực hiện nghiêm túc, mang lại kết quả tích cực. Theo số liệu được công bố gần đây nhất của NHNN, lũy kế từ thời điểm Nghị quyết 42 bắt đầu có hiệu lực (tháng 8/2017) đến hết tháng 8/2021, hệ thống các TCTD đã nhận diện 424,1 nghìn tỷ đồng nợ xấu và đã giải quyết được 364,1 nghìn tỷ đồng (khoảng 86%) theo Nghị quyết 42.

Thứ hai, đã góp phần hoàn thiện thể chế, khung pháp lý cho công tác xử lý nợ xấu. Sau khi Nghị quyết 42 đi vào triển khai, nhiều văn bản hướng dẫn thực hiện của Chính Phủ, NHNN, Bộ Tư pháp, Tòa án Nhân dân tối cao…v.v. đã được ban hành đã giúp Nghị quyết 42 đi vào thực tiễn. Tiêu biểu như: văn bản số 609/NHNN-TTGSNH ngày 24/1/2018 của NHNN về chỉ đạo tăng cường xử lý nợ xấu, nhằm đẩy nhanh tiến độ triển khai thực hiện NQ 42; Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán TANDTC về hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong giải quyết tranh chấp về xử lý nợ xấu, TSĐB của khoản nợ xấu tại TAND; văn bản số 3022/TCTHADS-NV1 của Tổng cục thi hành án ngày 15/8/2017 hướng dẫn một số nội dung liên quan đến triển khi NQ số 42/2017/QH14,…v.v. Cùng với đó là văn bản hướng dẫn hoạt động, nâng cao năng lực tài chính cho VAMC, qua đó tăng tốc độ, hiệu quả xử lý nợ xấu hơn. Với những văn bản này có thể nói hành lang pháp lý về xử lý nợ xấu tại Việt Nam đã có bước tiến lớn so với trước kia và đã tương đối hoàn thiện, tiệm cận thông lệ quốc tế hơn.

Thứ ba, giúp đẩy nhanh hơn tốc độ xử lý nợ xấu, góp phần quan trọng vào thực hiện thành công Đề án cơ cấu lại các TCTD giai đoạn 2016-2020 theo Quyết định 1058/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Cụ thể, cũng theo số liệu công bố mới nhất của NHNN, xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42 với mức trung bình khoảng 7,15 nghìn tỷ đồng/tháng (giai đoạn từ 15/8/2017 đến hết tháng 8/2021), gấp hơn 2 lần so với mức 3,63 nghìn tỷ đồng/tháng của giai đoạn 2012-2017 trước khi có Nghị quyết 42.

Thứ tư, thay đổi nhận thức của người dân, doanh nghiệp cũng như nhận thức về trách nhiệm của cơ quan liên quan như công an, tòa án, địa phương…v.v. đối với công tác xử lý nợ xấu. Những văn bản hướng dẫn thực thi Nghị quyết 42 dần được ban hành, phần nào thể hiện được nỗ lực vào cuộc của các cấp, ngành và địa phương. Đặc biệt, nhận thức, thiện chí của bên vay trong việc giải quyết nợ xấu đã được tăng lên, góp phần đáng kể vào kết quả xử lý nợ xấu thời gian qua. Theo NHNN, kể từ khi triển khai Nghị quyết 42 đến hết tháng 6/2021, quy mô nợ xấu nội bảng theo Nghị quyết 42 được khách hàng trả nợ là 138,34 nghìn tỷ đồng (chiếm 38,5% tổng nợ xấu theo Nghị quyết 42 đã xử lý), cao gần gấp đôi mức trung bình giai đoạn 2012-2017 là 22,8%. Điều này minh chứng rõ nét về ý thức trả nợ của khách hàng đã được nâng lên.

Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện Nghị quyết 42 vẫn còn 5 vướng mắc chính:

Thứ nhất, sự vào cuộc, phối kết hợp của các cơ quan chức năng, địa phương còn chưa kịp thời, chưa đồng bộ và nhất quán, dẫn đến quá trình thực thi Nghị quyết gặp không ít khó khăn.

Thứ hai, còn nhiều vướng mắc trong xử lý tài sản đảm bảo liên quan đến (i) quyền thu giữ tài sản bảo đảm (TSBĐ) của TCTD; (ii) việc mua, bán, sang tên TSBĐ là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất, tài sản gắn liền với đất hình thành trong tương lai; (iii) vướng mắc về thực hiện thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý TSBĐ và việc nộp thuế chuyển nhượng TSBĐ; (iv) thiếu thông tin về hiện trạng TSĐB; và (v) khó khăn, vướng mắc liên quan đến việc hoàn trả TSBĐ là vật chứng trong vụ án hình sự.

Thứ ba, khâu định giá, thẩm định giá khoản nợ và TSĐB còn nhiều khó khăn.

Thứ tư, số lượng hồ sơ được áp dụng theo thủ tục rút gọn rất hạn chế. Trên thực tế, chỉ cần bên vay không thống nhất với TCTD về dư nợ hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt hay từ chối thực hiện nghĩa vụ bảo đảm…v.v. thì Tòa án sẽ không áp dụng thủ tục rút gọn.

Thứ năm, Việt Nam vẫn còn thiếu vắng một thị trường mua bán nợ chính thức thực sự.

Vì lẽ đó, việc luật hóa Nghị quyết 42 sẽ góp phần quan trọng giải quyết những vướng mắc lớn nêu trên.

Đồng thời, nợ xấu là vấn đề liên tục, luôn hiện hữu của ngành ngân hàng và có xu hướng gia tăng. Do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, tỷ lệ nợ xấu nội bảng và nợ xấu gộp sau khi suy giảm liên tục từ năm 2016 thì đến cuối năm 2021 đã tăng mạnh, quay lại mức gần tương đương với giai đoạn đầu triển khai Nghị quyết 42. Quy mô nợ xấu cũng sẽ ngày càng gia tăng khi quy mô tín dụng của hệ thống các TCTD cũng ngày một tăng lên.

Ngoài ra, việc luật hóa xử lý nợ xấu cũng góp phần hoàn thiện, tăng hiệu lực, hiệu quả của công tác thể chế, một trong ba đột phá chiến lược tiếp tục được Đại hội Đảng XIII lựa chọn, thông qua.

Kinh nghiệm quốc tế cho thấy hướng luật hóa, hoàn thiện khung pháp lý xử lý nợ xấu cũng rất được quan tâm bởi các nền kinh tế lớn. Trên thực tế, do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, nợ xấu của hệ thống tài chính cũng trở thành mối lo ngại lớn cho nhiều quốc gia trên thế giới. Ví dụ mới đây nhất, để tạo tiền đề giải quyết nợ xấu, Liên minh Châu Âu EU vừa thông qua chỉ thị (EU) 2021/2167 về đối tượng cung cấp dịch vụ tín dụng và đối tượng mua các khoản tín dụng (Directive (EU) 2021/2167 on credit servicers and credit purchasers), hay còn được gọi là chỉ thị nợ xấu (the Non-Performing Loans Directive), có hiệu lực từ ngày 28/12/2021. Chỉ thị này cùng với các hành động khác của các cơ quan có thẩm quyền Châu Âu, sẽ cung cấp khung khổ pháp lý và các yêu cầu chung để góp phần tạo ra một thị trường thứ cấp thống nhất, thích hợp cho các TCTD xử lý nợ xấu trên bảng cân đối kế toán và giảm thiểu rủi ro tích lũy nợ xấu trong tương lai.

Hướng luật hóa Nghị quyết 42 có thể được tiến hành theo 2 bước: (i) bước một là có thể gia hạn, điều chỉnh, cập nhật phù hợp Nghị quyết 42 với thời gian khoảng 3 năm để có thêm thời gian rà soát, chuẩn bị cho dự thảo luật, cũng như kịp thời tháo gỡ những vướng mắc nêu trên; bước 2 là xây dựng Luật xử lý nợ xấu theo hướng phù hợp với thị trường và thông lệ quốc tế hơn.

TS. Cấn Văn Lực - Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV

Xem 803 lần

footer