"Trong điều kiện Nghị quyết 42 sắp hết hiệu lực (tháng 8/2022), áp lực nợ xấu đang ngày một hiện hữu, việc gia hạn Nghị quyết 42 và tiến tới là luật hóa Nghị quyết 42 là những bước đi cần thiết" TS Cấn Văn Lực - Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV khẳng định.
Nếu không được tiếp tục xử lý nợ xấu theo Nghị quyết sẽ gây ra rất nhiều khó khăn
Mặc dù xử lý nợ xấu theo Nghị quyết số 42/2017/QH14 (Nghị quyết 42) đã đạt được kết quả tích cực, nhưng thực tế vẫn còn tồn tại một số khó khăn, vướng mắc khi xử lý nợ xấu theo Nghị quyết số 42 cần tiếp tục có sự phối hợp của các bộ, ngành liên quan để xử lý. Ngày 05/8/2020, Thống đốc NHNN đã thừa ủy quyền của Thủ tướng để thay mặt Chính phủ có Báo cáo số 358/BC-CP về sơ kết 03 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 42, trong đó có nêu rõ 11 nhóm vấn đề khó khăn, vướng mắc khi các TCTD áp dụng Nghị quyết số 42.
Tại Báo cáo số 2154/BC-UBKT14 ngày 11/8/2020 đánh giá 03 năm thực hiện Nghị quyết số 42, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội (UBKTQH) đã nhận định: “...cơ bản thống nhất với 11 nhóm vấn đề khó khăn, vướng mắc nêu tại Báo cáo của Chính phủ. Theo đó, hiện còn nhiều TCTD phản ánh khó khăn, vướng mắc trong quá trình xử lý nợ xấu theo Nghị quyết số 42, như việc thu giữ TSBĐ, thực hiện thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý TSBĐ, mua bán khoản nợ xấu và phát triển thị trường mua bán nợ, việc hoàn trả TSBĐ là vật chứng trong vụ án hình sự, áp dụng thủ tục rút gọn trong xử lý tranh chấp tại Tòa án... Đặc biệt là khó khăn, vướng mắc liên quan đến công tác phối hợp triển khai, hướng dẫn từ các bộ, ngành và địa phương. Bên cạnh đó, tác động của đại dịch Covid-19 làm cho quá trình xử lý nợ xấu trở nên khó khăn hơn”.
Trong quá trình triển khai Nghị quyết số 42, thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, NHNN đã chủ động rà soát và phối hợp với các bộ, ngành có liên quan đánh giá các khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện Nghị quyết số 42 để có thể trình cấp có thẩm quyền phương hướng tháo gỡ các khó khăn này. Theo đó, trên cơ sở ý kiến của Bộ Tư pháp và các bộ, ngành có liên quan về một số hạn chế trong quá trình triển khai Nghị quyết số 42 của các TCTD, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã quan tâm, chỉ đạo, chủ trì hoặc giao Bộ Tư Pháp chủ trì một số cuộc họp với các bộ, ban, ngành có liên quan (Văn phòng Chính phủ, NHNN, Bộ Tài chính, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Ủy ban Pháp luật của Quốc hội, UBKTQH, Ủy ban Tư pháp của Quốc hội) để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc của các TCTD trong quá trình thực hiện Nghị quyết số 42 . Về cơ bản, các bộ, ngành, UBND tỉnh, thành phố có liên quan đã tham gia giải quyết khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng Nghị quyết số 42 của các TCTD có hiệu quả bước đầu. Tuy nhiên, những vướng mắc này trên thực tế đến nay vẫn chưa được tháo gỡ hoàn toàn hoặc cách áp dụng còn chưa đồng bộ, thiếu thống nhất.
TS Cấn Văn Lực - Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV chỉ ra những Kết quả tích cực của việc thực hiện Nghị quyết 42. Cụ thể, cuối 2016 ghi nhận nợ xấu nội bảng 2,5% và nợ xấu gộp 10,1%. Sang tháng 9.2017, nợ xấu nội bảng và nợ xấu gộp đều cải thiện đáng kể, lần lượt là 2,34% và 8,61%. Sang năm 2019, tỉ lệ này lần lượt giảm tiếp còn 1,6% và 4,4%. Về thể chế, nhiều văn bản hướng dẫn thực hiện đã được ban hàn, giúp hoàn thiện hành lang pháp lý cho xử lý nợ xấu. Nhận thức của người dân, doanh nghiệp và trách nhiệm của cơ quan liên quan (công an, toà án, chính quyền địa phương...) đối với công tác xử lý nợ đều được cải thiện. Từ tháng 8.2017 đến hết tháng 8.2021, hệ thống các tổ chức tín dụng đã nhận diện .... nghìn tỉ đồng nợ xấu và đã xử lý được 364,1 nghìn tỉ đồng. Tốc độ xử lý nợ xấu tăng khoảng 7,15 nghìn tỉ đồng/tháng (từ 15.8.2017 đến hết tháng 8.2021), so với mức 3,63 nghìn tỉ đồng/tháng ở giai đoạn trước đó. Qua đây, ông Lực bày tỏ niềm trăn trở với vấn đề tài sản đảm bảo và thứ tự ưu tiên tiền thanh lý tài sản đảm bảo hiện nay chưa thống nhất. Ông đề xuất cần làm rõ hơn với Bộ Tài chính về thuế và phí khi chuyển nhượng tài sản. Cơ cấu lại hệ thống tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu là nhiệm vụ trọng tâm của ngành ngân hàng trong giai đoạn 2016-2020. Tuy nhiên, đại dịch COVID-19 bùng phát từ đầu năm 2020 và tiếp tục kéo dài với diễn biến phức tạp, đã ảnh hưởng sâu sắc tới toàn bộ nền kinh tế, gây những tác động tiêu cực tới hoạt động của các doanh nghiệp, ảnh hưởng nghiêm trọng tới khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
Ông lực cho rằng không ngạc nhiên khi tỉ lệ nợ xấu toàn ngành ngân hàng tăng mạnh kể từ năm 2020, và dự kiến sẽ còn tăng trong giai đoạn tới. Trên thực tế, để ứng phó với diễn biến tiêu cực của nợ xấu, các TCTD đã chủ động phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro (tỷ lệ bao phủ nợ xấu bình quân của 28 NHTM niêm yết và Agribank (chiếm khoảng 80% thị phần tổng tài sản) đã tăng lên mức 150% cuối năm 2021, là mức cao nhất từ trước tới nay), song không thể phủ nhận nợ xấu vẫn còn tiềm ẩn rất nhiều rủi ro, gánh nặng đối với hệ thống TCTD là không nhỏ.
"Trong điều kiện Nghị quyết 42 sắp hết hiệu lực (tháng 8.2022), áp lực nợ xấu đang ngày một hiện hữu, việc gia hạn Nghị quyết 42 và tiến tới là luật hóa Nghị quyết 42 là những bước đi cần thiết", ông nói. Về bức tranh nợ xấu ngành ngân hàng hiện nay, chuyên gia kinh tế cho biết tỉ lệ nợ xấu có xu hướng tăng từ năm 2020.
Cụ thể, nợ xấu trong hệ thống TCTD có xu hướng giảm dần từ năm 2016 - 2019, có thể đạt mục tiêu theo QĐ 1058/QĐ-TTg (2017) Nợ xấu tăng trở lại từ năm 2020 do sự bùng nổ của đại dịch COVID-19.
Theo số liệu từ NHNN, cuối năm 2021 tỉ lệ nợ xấu nội bảng là 1,9% (tăng 0,21 điểm % so với cuối năm 2020), nếu tính thêm nợ bán cho VAMC thì con số này là 3,9%. Tỉ lệ nợ xấu gộp (bao gồm nợ xấu nội bảng, nợ xấu bán cho VAMC chưa được xử lý và nợ xấu tiềm ẩn từ các khoản cơ cấu lại) tăng mạnh lên mức 7,31% cuối năm 2021 từ mức 5,1% cuối năm 2020 và gần tương đương với con số cuối năm 2017 (7,4%) - cũng là năm mà Nghị quyết 42 bắt đầu có hiệu lực. Nợ xấu của hệ thống các TCTD gia tăng là điều đã được dự báo trước khi mà sự bùng phát của đại dịch COVID-19, và đặc biệt là làn sóng thứ 4 với biến chủng Delta trong năm 2021 đã gây ra các tổn thất nặng nề đối với các hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, sinh kế và đời sống của người dân. Theo báo cáo tài chính năm 2021 mới được các ngân hàng công bố, nợ xấu có xu hướng gia tăng rõ rệt tại một số ngân hàng, thí dụ như VPBank (tăng 60% so với 2020), Vietinbank (49%), VIB (58%), HDB (43%)…. Bình quân số dư nợ xấu 28 NHTM niêm yết và Agribank tăng 17,3% so với năm 2020. Trong bối cảnh nợ xấu gia tăng, Ngân hàng Nhà nước đã cho ra đời 3 thông tư chưa có tiền lệ cho phép cơ cấu lại nợ, không phải chuyển nhóm nhưng vẫn phải phân nhóm ngầm trong ngân hàng và trích lập dự phòng rủi ro trong một số năm xác định. Ông Lực nhận định đây là một sự thay đổi rất lớn và là nước đi "thông minh".
Ông Lực cho biết them, theo số liệu thu thập, tại Mỹ nợ xấu cũng tăng không kém gì Việt Nam. Tỉ lệ gia tăng chủ yếu đến từ cho vay tiêu dùng và thẻ tín dụng, đây là đối tượng chịu tác động mạnh nhất trong bối cảnh kinh tế khó khăn. Riêng tại Châu Âu, tỉ lệ nợ xấu lại giảm do họ bán, thanh lý rất nhiều nợ xấu. Họ bán theo cơ chế thị trường, giá thị trường, bán đứt. Tại Châu Á, tỉ lệ nợ xấu đồng loạt tăng từ Hàn Quốc, ASIAN 5 hay Trung Quốc. Theo ông Lực, đây là xu thế tất yếu trong bối cảnh kinh tế khó khăn, sản xuất đình trệ và thu nhập của người dân giảm.
Còn luật sư Trương Thanh Đức - Công ty Luật ANVI, Trọng tài viên VIAC - cho rằng, Nghị quyết số 42 đã sắp hết hiệu lực, thời hạn thực hiện chỉ còn đến 15.8.2022. Nếu không được tiếp tục xử lý nợ xấu theo Nghị quyết này thì sẽ gây ra rất nhiều khó khăn cho ngành Ngân hàng, nhất là trong bối cảnh nợ xấu bùng phát sau hậu quả của đại dịch COVID-19.
“Vì vậy, cần hoàn thiện chính sách xử lý nợ xấu theo hướng quy định rõ ràng hơn, cụ thể hơn, hợp lý hơn, khả thi hơn và hợp lý nhất là nâng lên thành luật, để bảo đảm việc xử lý kịp thời, có hiệu quả nợ xấu của ngành Ngân hàng nói riêng và của cả nền kinh tế nói chung. Trường hợp không kịp ban hành hoặc không ban hành Luật, thì cần tiếp tục duy trì hiệu lực của Nghị quyết này”, Luật sư Đức cho hay.
Theo ông Đức, Luật Xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng cần được tiếp tục duy trì trong khoảng tối thiểu 5 - 10 năm nữa, cho đến khi nào tòa án thực sự bảo đảm được trên thực tế yêu cầu xử lý tài sản bảo đảm nói riêng, các vụ án đòi nợ nói chung một cách nhanh chóng, kịp thời, hiệu quả.
Trong đó có việc rút gọn thủ tục theo đúng quy định tại Phần thứ Tư về “Giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn”, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và Nghị quyết số 03 ngày 15.5.2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao “Hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong giải quyết tranh chấp về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu tại Tòa án nhân dân”.
Bình luận về việc bảo đảm quyền của chủ sở hữu tài sản, Luật sư Trương Thanh Đức cho hay, xử lý nợ xấu gồm 2 loại chính là nợ xấu không có và nợ xấu có tài sản bảo đảm. Đối với nợ xấu không có tài sản bảo đảm, là khoản nợ rất khó thu hồi trên thực tế vì phụ thuộc hoàn toàn vào khả năng tài chính của chính “con nợ” chứ không phải do vướng mắc, khó khăn của pháp luật. Vì vậy không cần thiết phải đặt ra vấn đề hỗ trợ xử lý bằng quy định pháp luật đặc thù, mà vẫn được xử lý theo quy định chung như đối với mọi khoản nợ, trong đó có việc đòi nợ theo trình tự yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
“Đối với nợ xấu có tài sản bảo đảm, nhất là nợ xấu của các tổ chức tín dụng, tuy có khả năng thu hồi, nhưng lại gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trên thực tế, nên rất cần cơ chế pháp lý hỗ trợ để xử lý, trong đó tập trung vào việc xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ”, ông Đức nói.
Cũng theo vị này, xét về bản chất, việc chủ sở hữu tài sản thực hiện giao dịch thế chấp là đã tự nguyện thỏa thuận và chấp nhận hậu quả pháp lý ảnh hưởng hạn chế, bất lợi đến quyền sở hữu tài sản và chỗ ở của mình, mà mức độ cao nhất là chấp nhận không còn quyền sở hữu tài sản và không còn chỗ ở. Còn xét về hậu quả pháp lý của việc bảo đảm, nhất là trường hợp phải xử lý tài sản để thực hiện nghĩa vụ bảo đảm, thì có thể coi quyền bảo đảm tương tự như quyền định đoạt tài sản.
“Tóm lại, có thể coi quyền bảo đảm bằng tài sản là một dạng quyền định đoạt tài sản có điều kiện. Và điều kiện trong trường hợp này là khi phải xử lý tài sản bảo đảm để thực hiện nghĩa vụ bảo đảm. Nghĩa là, chủ sở hữu tài sản chấp nhận, nếu xuất hiện sự vi phạm nghĩa vụ theo thỏa thuận bảo đảm thì tài sản sẽ được định đoạt”, Luật sư Đức bình luận.
Còn về các điều kiện thu giữ tài sản thế chấp, theo luật sư, trong việc xử lý tài sản bảo đảm thì vấn đề vướng mắc chủ yếu là xử lý tài sản thế chấp, nhất là tài sản của người thứ ba. Còn đối với xử lý tài sản cầm cố thì gần như không có khó khăn gì, đặc biệt là xử lý tài sản bảo đảm ký quỹ và đặt cọc thì càng đơn giản, dễ dàng. “Để bảo đảm một cách công bằng, hợp lý, hài hòa quyền và lợi ích của cả hai bên, tránh việc tổ chức tín dụng lợi dụng, lạm quyền gây thiệt hại cho người có tài sản thế chấp, thì cần xem xét quy định thêm điều kiện về thời hạn thông báo và xử lý tài sản bảo đảm theo hướng khuyến khích chủ sở hữu tài sản tự bán tài sản. Chẳng hạn như đối với tài sản bảo đảm là động sản thì thời hạn tối thiểu là 1 tháng đối với bất động sản thì thời hạn tối thiểu là 6 tháng”, luật sư Đức nhấn mạnh.
6 lý do đáng để cân giắc gia hạn thêm.
Trước bối cảnh Nghị quyết 42 sắp đến thời điểm hết hiệu lực, TS Cấn Văn Lực nhấn mạnh rằng có 6 lý do sau sẽ đáng để cân giắc gia hạn thêm.
Thứ nhất, tác động, hiệu quả của Nghị quyết 42 là rất tích cực, rõ nét. Thứ hai, còn một số vướng mắc chính khi thực hiện Nghị quyết 42 trong thời gian qua. Thứ ba, nợ xấu là vấn đề liên tục, hiện hữu của ngành ngân hàng và có xu hướng gia tăng. Thứ tư, Nghị quyết sẽ góp phần cải thiện, tăng hiệu lực, hiệu quả của thể chế, một trong 3 đột phá chiến lực. Thứ năm, về trách nghiệm quốc tế, đây là lúc rà soát các quy định pháp luật về kinh doanh, quản lý và xử lý nợ xấu. Thứ sáu, xử lý bất cập, tăng hiệu quả xử lý nợ xấu. Qua đó tăng nguồn lực và tiết giảm chi phí cho hệ thống tổ chức tín dụng, các bên liên quan và nền kinh tế.
Mặc dù tỉ lệ bao phủ nợ xấu của các TCTD đã được cải thiện rõ rệt, song rủi ro nợ xấu luôn tiềm ẩn. Trong khi đó, Nghị quyết 42 và Thông tư 14 sẽ hết hiệu lực trong vài tháng tới, khiến áp lực xử lý nợ xấu của hệ thống các TCTD kể từ quý 3.2022 là rất lớn.
TS Cấn Văn Lực nhấn mạnh rằng các giải pháp mạnh mẽ để xử lý triệt để nợ xấu, đặc biệt các giải pháp liên quan đến khung pháp lý, cần phải được đặc biệt chú trọng trong năm 2022 để nâng cao hiệu quả xử lý nợ xấu, tránh tình trạng nợ xấu cũ chưa được xử lý, nợ xấu mới gia tăng nhanh hơn nhằm tháo gỡ rủi ro tiềm tàng cho nền kinh tế. Qua đây, ông cho rằng Chính phủ nên xem xét đề xuất Quốc Hội sớm tổng kết Nghị quyết 42, tiến tới luật hóa Nghị quyết 42 trên cơ sở rà soát, hoàn thiện và hệ thống hóa các quy định pháp luật liên quan. Chuyên gia kinh tế kiến nghị hướng luật hóa Nghị quyết 42 có thể được tiến hành theo 2 bước sau:
Bước 1, gia hạn điều chỉnh, cập nhật phù hợp Nghị quyết 42 với thời gian gia hạn khoảng 3 năm để có thêm thời gian rà soát, chuẩn bị cho dự thảo luật, kịp thời tháo gỡ ngay những vướng mắc đã được chỉ ra.
Bước 2, tiến hành xây dựng Luật xử lý nợ xấu theo hướng phù hợp với thị trường và thông lệ quốc tế hơn.
Ông Lực lưu ý rằng gia hạn thêm Nghị định 42 cần song hành với giải quyết 5 vướng mắc chính:
Thứ nhất là sự vào cuộc, phối kết hợp chưa đồng bộ của các cơ quan chức năng, địa phương còn chưa kịp thời, chưa đồng bộ và nhất quán.
Thứ hai là những vướng mắc trong xử lý tài sản đảm bảo liên quan đến quyền thu giữ tài sản bảo đảm (TSBĐ) của TCTD; việc mua, bán, sang tên TSBĐ là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất, tài sản gắn liền với đất hình thành trong tương lai; vướng mắc về thực hiện thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý TSBĐ và việc nộp thuế chuyển nhượng TSBĐ; thiếu thông tin về hiện trạng TSĐB; và khó khăn, vướng mắc liên quan đến việc hoàn trả TSBĐ là vật chứng trong vụ án hình sự.
Thứ ba là khó khăn trong khâu định giá, thẩm định giá khoản nợ và TSĐB.
Thứ tư là sự hạn chế trong số lượng hồ sơ được áp dụng theo thủ tục rút gọn. Trên thực tế, chỉ cần bên vay không thống nhất với TCTD về dư nợ hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt hay từ chối thực hiện nghĩa vụ bảo đảm…thì Tòa án sẽ không áp dụng thủ tục rút gọn.
Thứ năm là sự thiếu vắng một thị trường mua bán nợ chính thức thực sự tại Việt Nam.
Đồng quan điểm trên, Luật sư Trương Thanh Đức - Công ty Luật ANVI, Trọng tài viên VIAC - cho rằng, Nghị quyết số 42 đã sắp hết hiệu lực, thời hạn thực hiện chỉ còn 6 tháng (đến 15.8.2022). Nếu không được tiếp tục xử lý nợ xấu theo Nghị quyết này thì sẽ gây ra rất nhiều khó khăn cho ngành Ngân hàng, nhất là trong bối cảnh nợ xấu bùng phát sau hậu quả của đại dịch COVID-19.
“Vì vậy, cần hoàn thiện chính sách xử lý nợ xấu theo hướng quy định rõ ràng hơn, cụ thể hơn, hợp lý hơn, khả thi hơn và hợp lý nhất là nâng lên thành luật, để bảo đảm việc xử lý kịp thời, có hiệu quả nợ xấu của ngành Ngân hàng nói riêng và của cả nền kinh tế nói chung. Trường hợp không kịp ban hành hoặc không ban hành Luật, thì cần tiếp tục duy trì hiệu lực của Nghị quyết này”, Luật sư Đức cho hay.
Trải qua gần 05 năm đi vào thực tiễn, các giải pháp nêu tại Nghị quyết số 42 đã tạo ra những chuyển biến tích cực trong công tác xử lý nợ xấu và góp phần quan trọng vào kết quả công tác cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020, thể hiện định hướng, chính sách đúng đắn của Đảng, Quốc hội, Chính phủ tạo niềm tin đối với hệ thống các TCTD nói riêng và toàn bộ xã hội nói chung đối với công tác xử lý nợ xấu trong nền kinh tế.
Sau khi Nghị quyết số 42 có hiệu lực thi hành, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) cùng với các bộ, ngành, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (UBND tỉnh, thành phố) triển khai nghiêm túc, nỗ lực đẩy mạnh xử lý nợ xấu đúng mục tiêu, định hướng; công tác xử lý nợ xấu đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Các quy định tại Nghị quyết số 42 đã được các TCTD và Công ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam (VAMC) áp dụng có hiệu quả trên thực tế, TCTD đã tích cực hơn trong công tác xử lý nợ xấu, ý thức trả nợ của khách hàng tăng cao, các hình thức xử lý nợ xấu được sử dụng đa dạng.
Theo SBV